Lịch sử Palestine là một lĩnh vực nghiên cứu về quá khứ trong khu vực của
Palestine, nói chung được xác định là một khu vực địa lý ở
Nam Levant giữa
Biển Địa Trung Hải và
sông Jordan (nơi mà các khu vực của
Israel và Palestine tồn tại ở thời điểm hiện tại) và một số vùng đất gần kề. Tồn tại ở vị trí chiến lược giữa
châu Âu,
châu Á và
châu Phi, và là nơi ra đời của
Do Thái giáo và
Thiên Chúa giáo,
[1] khu vực này đã có một giai đoạn lịch sử dài và sôi động như là nơi giao thoa của tôn giáo, văn hóa, thương mại và chính trị. Khu vực Palestine hay là nhiều phần của nó đã từng được kiểm soát bởi các tộc người và các thế lực khu vực khác nhau, bao gồm
Canaan,
Amorite,
[2] Ai Cập cổ đại,
Israel,
Moab,
Ammon,
Tjeker,
Philistine,
Đế quốc Assyria,
Đế quốc Babylon,
Đế quốc Ba Tư,
Hy Lạp cổ đại,
La Mã cổ đại,
Đế quốc Đông La Mã; nhiều triều đại khác nhau của Thời kỳ Đầu Hồi giáo (
Umayads,
Abbasids,
Seljuqs,
Fatimids),
Vương quốc Jerusalem, Thời kỳ Cuối Hồi giáo (
Ayyubid,
Mamluk,
Đế quốc Ottoman); tiếp theo đó là
người Anh,
người Jordan (
1948 -
1967, trên khu vực "
Bờ Tây") và
người Ai Cập (ở
Gaza) và bây giờ là những quốc gia Israel và Palestine hiện đại. Nhiều thuật ngữ khác nhau dành cho vùng đất Palestine như Canaan,
Zion,
Vùng đất Israel,
Nam Syria,
Jund Filastin,
Outremer và
Vùng đất Hy vọng.Vùng đất Palestine trở thành một trong những vùng đất chứng kiến sự cư ngụ của
con người, các xã hội nông nghiệp và
văn minh. Ở đầu và giữa
Thời kỳ Đồ đồng, các thành bang độc lập của người Canaan được thành lập và chịu ảnh hưởng bởi những nền văn minh xung quanh như Ai Cập,
Lưỡng Hà,
Phoenicia,
Minoan và Syria. Ở
Cuối Thời kỳ Đồ đồng,
1550 TCN -
1400 TCN, những thành phố của người Canaan trở thành chư hầu của người Ai Cập duới thời kỳ
Tân vương quốc, cho đến năm
1178 TCN, năm xảy ra
Trận Djahy, trong giai đoạn sụp đổ của Thời kỳ Đồ đồng. Những nhà khảo cổ hiện đại tranh cãi về những truyền thuyết Kinh thánh, ý kiến mới nhất cho rằng những người Israel nổi lên từ một sự thay đổi xã hội kịch tính xảy ra trong cộng đồng người sống ở vùng đất trung tâm đồi ở Canaan vào năm 1200 TCN, mà không có dấu hiệu của sự xâm lược bạo lực hoặc thậm chí sự xâm nhập trong hòa bình của một tộc người nào khác từ nơi nào khác đến.
[3] Philistine, một nhóm các
hải nhân của phía nam
châu Âu, dời đến và trộn lẫn vào nhân dân địa phương, và theo các truyền thuyết
Kinh thánh,
Vương quốc Liên hiệp Israel đã được thành lập vào năm 1020 TCN và bị chia rẽ trong một
thế kỷ thành
Vương quốc Israel ở phía bắc và
Vương quốc Judah ở phía nam. Khu vực Palestine đã trở thành một phần của
Đế quốc Tân Assyria từ khoảng năm 740 TCN. Rồi đến lượt mình, đế quốc này lại trở thành một phần của
Đế quốc Tân Babylon vào khoảng năm 627 TCN. Cuộc chiến tranh với
Ai Cập xảy ra vào năm 586 TCN đã tàn phá Jerusalem. Người gây ra sự phá hủy đó là vua
Nebuchadnezzar II và những lãnh đạo địa phương
đã bị lưu đày tới Babylon. Họ chỉ được phép quay trở về vùng đất Palestine dưới thời
Đế quốc Ba Tư.Trong
thập niên 330 TCN,
Alexander Đại đế đã chinh phục vùng đất mà nay gọi là Palestine. Và vùng đất này liên tục thay đổi chủ trong
các cuộc chiến tranh của Diadochi. Sau cùng, nó bị sáp nhập vào
Đế quốc Seleukos trong giai đoạn từ năm
219 TCN đến năm
200 TCN. Năm 116 TCN, một cuộc nội chiến đã nổ ra bên trong vương quốc Seleukos dẫn đến việc tạo thành một số vùng đất độc lập bao gồm
triều đại Hasmonea trên
Núi Judea. Từ năm 110 TCN, nhà Hasmonean đã mở rộng lãnh thổ của mình, tạo thành liên minh
Judea -
Samarita -
Idumaea -
Ituraea -
Galilea.
[4] Người Judea (hay
người Do Thái, xem
loudaioi) kiểm soát khu vực xa hơn. Điều này đã tạo nên
Tỉnh Judea của La Mã, một thuật ngữ trước đây chỉ nhắc đến cho khu vực nhỏ hơn của Núi Judea. Trong các năm 73 TCN - 63 TCN,
Cộng hòa La Mã mở rộng ảnh hưởng của mình lên vùng đất Judea trong
Chiến tranh Mithridates lần thứ ba và nó đã bị chinh phục vào năm 63 TCN. Đồng thời, Vương quốc Hasmonea bị chia thành năm quận. Vào năm 70,
Titus đã
bao vây Jerusalem. Kết quả đó là sự phân tán người Do Thái và người Thiên Chúa giáo thành các vùng
Yavne và
Pella. Năm
132,
Hadrian đã hợp nhất tỉnh Judea với
Galilee để thành một tỉnh mới có tên là
Palaestina Syria và Jerusalem đã được đổi thành
Aelia Capitolina. Sau khi
Bar Kochba lãnh đạo người Do Thái nổi dậy, cuộc nổi dậy bị cấm tại các khu vực lân cận của Jerusalem.
[5] Như là một kết quả, nhiều địa chủ Do Thái đã cải đạo sang
Ebionim đẻ duy trì quyền sở hữu tài sản của họ.
[6] Trong các năm 259 - 272, vùng đất Palestine nằm dưới sự cai trị của vua
Odaenathus của
Đế quốc Palmyra. Sau chiến thắng của vua
Constantine trong
Nội chiến Tứ đầu chế, quá trình Cơ Đốc hóa của La Mã bắt đầu. Trong năm
326, mẹ của Constantine là bà
Saint Helena đến thăm Jerusalem và bắt đầu quá trình xây dựng các nhà thờ và lăng mộ. Cuộc đàn áp
người Ebionim đã dẫn đến việc họ bị xua đuổi khỏi vùng đất của mình đến Ả Rập và
Đế quốc Parthia.
[7] Palestine đã trở thành một trung tâm của Thiên Chúa giáo với nhiều mục sư và nhiều học giả tôn giáo.
Cuộc nổi dậy Samarita trong thời kỳ này đã đưa người Samarita gần đến sự tuyệt diệt.Palestine đã bị chinh phục trong
trận Yarmouk vào năm
636 trong quá trình
người Hồi giáo chinh phục Syria. Và người Hồi giáo đã giảm nhẹ thuế từ thời La Mã và gánh nặng từ các cuộc đàn áp người dị giáo đối với người theo đạo Cơ Đốc. Năm
661, với vụ ám sát
Ali, vua
Muawiyah I đã trở thành caliph không phải bàn cãi của
Thế giới Hồi giáo. Ông được trao vương miện sau đó tại Jerusalem. Vào năm
691,
Mái vòm Đá đã trở thành công trình Hồi giáo đầu tiên mang tầm cỡ thế giới.
Umayyad đã bị thay thế bởi
Abbasids trong năm
750. Từ năm
878, Palestine đã bị cai quản bởi Ai Cập như là một khu tự trị trong gần một thế kỷ, bắt đầu với
Ahmad ibn Tulun và kết thúc là
Ikhshidid và cả hai vị này được chôn cất tại Jerusalem. Trong những thế kỷ này, người dị giáo đối với Cơ Đốc đã cải đạo sang Hồi giáo. Người Fatimid đã chinh phục vùng đất vào năm
969. Vào năm
1073, Palestine đã bị chiếm bởi
Đế quốc Seljuq Lớn, sau đó người Fatimid đã giành lại vùng đất này vào năm
1098. Rồi nó lại rơi vào tay của các chiến binh
Thập tự chinh vào năm
1099. Sự kiểm soát của các chiến binh này đối với Jerusalem và Palestine kéo dài gần thế kỷ cho đến khi bị đánh bại bởi quân đội của
Saladin vào năm
1187. Sau đó, gần như toàn bộ Palestine đã được kiểm soát bởi người
Ayyubid. Một bang Thập tự chinh tiền tiêu ở ven biển phía bắc tồn tại trong thế kỷ tiếp theo, thế nhưng dù có thêm 7 cuộc thập tự chinh, những chiến binh của các cuộc viễn chiến này không có quyền lực quan trọng ở Palestine.
Ngôi vua Mamluk đã được gián tiếp thiết lập tại Ai Cập như là kết quả của
Cuộc Thập tự chinh Thứ bảy.
Đế quốc Mông Cổ đã tiến đến Palestine lần đầu tiên vào năm
1260 với
một cuộc vây bắt dưới sự lãnh đạo của tướng
Nestorianism Kitbuqa. Đỉnh điểm của cuộc vây bắt này là
Trận Ain Jalut. Vào năm
1486, sự thù địch đã nổ ra giữa những người Mamluk và Đế quốc Ottoman và người Ottoman đã chiếm được Palestine vào năm
1516.Vào năm
1832, vùng đất Palestine đã bị chinh phục bởi
Muhammad Ali của Ai Cập. Nhưng vào năm
1840, những người Anh quốc đã can thiệp và dành quyền kiểm soát
Levant cho người Ottoman để có điều kiện cho một bản thỏa ước xa hơn. Sự hỗn loạn khi người Ai Cập kiểm soát vùng đất được thể hiện rõ ở hai cuộc nổi loạn lớn:
Cuộc nổi loạn của Nông dân Ả Rập năm 1834 và
Cuộc nổi loạn Druze năm 1838 và sự thay đổi đáng kể về nhân khẩu học ở các vùng ven biển, cư trú chủ yếu là nông dân người Ai Cập và những người lính cũ của Ali. Cuối
thế kỷ 19 chứng kiến sự bắt đầu của
chủ nghĩa Zion và
sự phục hưng tiếng Hebrew. Dân số Do Thái tăng lên trong cuối thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20 đã góp phần đáng kể vào số lượng dân số Do Thái ở Jerusalem,
Safed,
Tiberias và
Jaffa.
[8]Trong
Chiến tranh thế giới thứ nhất, người Anh thông qua
Tuyên bố Balfour vào năm 1917. Trong bản tuyên bố này, người Anh thể hiện sự ưa thích thành lập ngôi nhà quốc gia dành cho người Do Thái ở Palestine. Chính phủ Anh đã chiếm đoạt Jerusalem 1 tháng sau khi ra bản tuyên bố.
Hội Quốc liên đã trao cho Anh quốc sự
sự ủy thác lên toàn Palestine vào năm
1922. Vùng đất phía tây của
sông Jordan nằm dưới sự cai quản trực tiếp của người Anh cho đến năm
1948. Trong khi đó, vùng đất phía đông sông này là một vùng đất bán tự trị và được biết đến với cái tên
Transjordan dưới sự quản lý của gia đình
Hashemite và giành độc lập vào năm
1946.
Cuộc nổi dậy Ả Rập tại Palestine 1936 - 1939 đã nổ ra, là biểu hiện dân tộc của những người Ả Rập ở Palestine chống lại người Anh cai quản thuộc địa và dân cư người Do Thái trong vùng đất.Sau
Holocaust, sức ép tăng lên để có sự thừa nhận một quốc gia người Do Thái trong Palestine. Vào năm
1947, chính phủ Anh công bố ý định của họ để kết thúc sự ủy thác.
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bỏ phiếu chia vùng đất Palestine thành các quốc gia độc lập của người Do Thái và người Ả Rập với một chế độ quốc tế đặc biệt dành cho Jerusalem. Những người Ả Rập đã không chấp nhận sự chia tách này nhưng người Do Thái đã tuyên bố độc lập và thành lập
Nhà nước Israel vào năm
1948. Cuộc
chiến tranh Palestine 1948 đã xảy ra và trong cuộc chiến, Israel đã chiếm nhiều vùng đất hơn quy định trong quá trình phân chia. Jordan đã
chiếm vùng đất mà nay là Bờ Tây, trong khi đó ở
Dải Gaza, chính phủ của toàn người Palestine được thành lập vào tháng 9 năm 1948. Ở vùng đất
Nakba hay "Catastrophe", hàng trăm ngôi làng của Palestine và hơn 70000 ngôi nhà Palestine đã bị phá hủy.
[9] 700000 người Palestine đã chạy trốn hoặc bị xua đuổi bởi người Israel. Các trại tị nạn Palestine không có thẩm quyền theo
Hội nghị Lausanne 1949.[
cần dẫn nguồn] Trong và sau chiến tranh năm 1948, một làn sóng
người tị nạn Do Thái từ các quốc gia Ả Rập trở về Palestine đã xảy ra. Câu hỏi về quyền trở về của những người tị nạn và con cháu họ đã duy trì một cuộc tranh cãi.
[10] Chính phủ toàn người Palestine đã được dời từ Gaza đến
Cairo và cuối cùng tan rã vào năm
1959 bởi
Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser. Gaza đã thuộc
quyền kiểm soát về mặt quân sự của Ai Cập.Phong trào dân tộc của người Palestine dần dần thành lập lại tại Bờ Tây và Gaza và trong các trại tị nạn của người Palestine tại các quốc gia Ả Rập lân cận.
Tổ chức Giải phóng Palestine đã ra đời với vai trò dẫn đầu phong trào này. Trong
chiến tranh Sáu Ngày vào
tháng 6 năm
1967, Israel đã chiếm được Tây Jerusalem và Bờ Tây từ Jordan và Gaza từ Ai Cập cũng như
Đỉnh Golan từ Syria. Mặc sự phản đối của
Liên hợp quốc và nghị quyết của tổ chức này tuyên bố đó là hành động bất hợp pháp, Israel đã bắt đầu chính sách
định cư người Israel trong
các vùng đất chiếm được của Israel.
[11] Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) dưới sự lãnh đạo của
Yasser Arafat dần dần giành sự công nhận quốc tế mang tính chất biểu tượng cho người Palestine. Từ năm
1987 đến năm
1993,
Intifada Thứ nhất, sự nổi dậy chống Israel, nổi lên và chỉ kết thúc bằng
Thỏa thuận Hòa bình Oslo 1993. Thỏa thuận này đã thành lập
Chính quyền Dân tộc Palestine (viết tắt theo
tiếng Anh là PNA hay PA nếu dùng tên gọi tắt là Chính quyền Palestine) như là một chính phủ lâm thời để quản lý Gaza và Bờ Tây (nhưng không có Đông Jerusalem) trong quá trình chờ thỏa thuận cho cuỗ xung đột.Trong
Infitada Thứ hai (
2000 -
2005), Israel đã rút khỏi
dải Gaza và bắt đầu xây dựng bờ chắn tại Bờ Tây. Trong năm
2006,
Hamas đã giành thắng lợi cuộc bầu cử lập pháp Palestine và kiểm soát dải Gaza vào năm
2007, gây nên
Sự phong tỏa dải Gaza cho đến hiện nay. Trong các năm
2008 -
2009 và
2014, Israel đã ném bom và tấn công bằng tên lửa vào Gaza. Những chiến dịch này bị chỉ trích vì gây cái chết cho dân thường.
[12][13]Vào
tháng 10 năm
2011,
UNESCO công nhận
Nhà nước Palestine là một thành viên.
Tháng 11 năm
2012, nhà nước Palestine được Liên hợp quốc công nhận từ thực thể quan sát viên thành nhà nước quan sát viên, đồng thời có một vị trí trong Đại hội đồng. Điều này đã tạo sự thay đổi cho thực thể này và tạo cơ hội tham gia các tổ chức khác của Liên hợp quốc.