Phật giáo Hồi giáo •
Kim •
Tống (
trận Tương Dương •
trận Nhai Môn) •
Đại LýTrung Á (
Tây Liêu •
Khwarezmia) •
Ấn Độ •
Volga Bulgariachâu Âu (
Rus' •
Ba Lan •
Hungary •
Dzurdzuketia •
Bulgaria) •
Cao Ly •
Ngoại Kavkaz •
Tây Tạng •
Tiểu Á •
Syria •
Đại Việt (
1258 •
1285 •
1287-1288 •
trận Bạch Đằng)
Đế quốc Mông Cổ (
tiếng Mông Cổ: Монголын эзэнт гүрэн, chuyển tự Mongol-yn Ezent Güren IPA:
[mɔŋɡ(ɔ)ɮˈiːŋ ɛt͡sˈɛnt ˈɡurəŋ] (
nghe)) là đế quốc
du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14.
[2] Khởi đầu trên vùng thảo nguyên Trung Á, đế quốc cuối cùng đã trải dài từ
Đông Âu đến
biển Nhật Bản, bao gồm nhiều phần rộng lớn của
Siberi ở phía bắc và mở rộng về phía nam đến
Đông Nam Á,
tiểu lục địa Ấn Độ,
cao nguyên Iran, và
Trung Đông. Ở thời điểm đỉnh cao, đế quốc Mông Cổ trải dài 9.700 km (6.000 mi), diện tích lãnh thổ lên tới 24.000.000 km2 (9.300.000 sq mi),
[3][4][5][6] và thống trị 100 triệu dân.Đế quốc Mông Cổ xuất hiện khi các bộ lạc
Mông Cổ và
Đột Quyết trên khu vực Mông Cổ lịch sử thống nhất đưới quyền lãnh đạo của
Thành Cát Tư Hãn. Thành Cát Tư Hãn đã được tuyên bố là người cai trị của toàn thể người Mông Cổ vào năm 1206. Đế quốc phát triển nhanh chóng dưới quyền cai trị của ông cùng các hậu duệ về sau này, họ đã tiến hành
các cuộc xâm lược theo mọi hướng.
[7][8][9][10][11][12] Đế quốc liên lục địa rộng lớn này đã kết nối phương Đông và phương Tây với việc thi hành
hòa bình kiểu Mông Cổ, cho phép mậu dịch, công nghệ, hàng hóa, ý thức hệ trở nên phổ biến và được trao đổi khắp
lục địa Á-Âu.
[13][14]Đế quốc bắt đầu phân liệt do hậu quả của các cuộc chiến tranh kế vị, khi các cháu nội của Thành Cát Tư Hãn tranh chấp về việc liệu dòng Đại hãn nên theo dòng của vị con trai kế vị
Oa Khoát Đài (Ögedei), hay theo dòng của một trong số những người con trai khác của Thành Cát Tư Hãn như
Đà Lôi (Tolui),
Sát Hợp Đài (Chagatai), hay
Truật Xích (Jochi). Dòng hậu duệ của Đà Lôi đã thắng thế sau một cuộc thanh trừng đẫm máu bè phái dòng hậu duệ của Oa Khoát Đài và dòng hậu duệ của Sát Hợp Đài, song tranh chấp đã tiếp diễn và thậm chí diễn ra ngay trong dòng hậu duệ của Đà Lôi. Khi một vị Đại hãn băng hà, các đại hội
Hốt lý lặc thai (kurultai) kình địch có thể đồng thời bầu lên những người kế vị khác nhau, như trường hợp hai huynh đệ
A Lý Bất Ca (Ariq Böke) và
Hốt Tất Liệt (Kublai), họ đều được bầu làm Đại hãn và sau đó đã không những chỉ phải đối phó với nhau, mà còn đối diện với những thách thức từ những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn.
[15][16] Hốt Tất Liệt đã thành công trong việc đoạt lấy quyền lực, nội chiến đã xảy ra sau đó khi Hốt Tất Liệt tìm cách giành lại quyền kiểm soát đối với hai dòng hậu duệ của Sát Hợp Đài và Oa Khoát Đài, song đã không thành công.Vào thời điểm Hốt Tất Liệt băng hà năm 1294, Đế quốc Mông Cổ đã bị tan vỡ thành bốn hãn quốc hay đế quốc riêng biệt, mỗi một hãn quốc lại theo đuổi lợi ích và mục tiêu riêng của mình:
Hãn quốc Kim Trướng ở phía Tây Bắc,
Hãn quốc Sát Hợp Đài ở Trung Á,
Hãn quốc Y Nhi ở phía Tây Nam, và
triều Nguyên ở khu vực Đông Á tương đương Trung Quốc ngày nay. Nhà Nguyên định đô tại khu vực
Bắc Kinh ngày nay.
[17] Năm 1304, ba hãn quốc phía tây trong một thời gian ngắn đã chấp nhận quyền bá chủ của triều Nguyên,
[18][19] song đến khi triều đại này bị
triều Minh của
người Hán lật đổ vào năm 1368, đế quốc Mông Cổ đã chính thức tan rã.