Nhà Liêu hay
triều Liêu (
giản thể: 辽朝;
phồn thể: 遼朝;
Hán-Việt: Liêu triều;
bính âm: Liáo Cháo
907/
916-
1125), còn gọi là nước
Khiết Đan (契丹國,
đại tự Khiết Đan:
)
[chú thích 1] là một
triều đại phong kiến do người
Khiết Đan kiến lập trong
lịch sử Trung Quốc, vận nước kéo dài từ năm
907 đến năm
1218, dài 331 năm, đối kháng kéo dài với
triều Tống ở phía nam.Ngày
27 tháng 2 năm 907, thủ lĩnh tộc Khiết Đan là
Gia Luật A Bảo Cơ xưng là "Thiên hoàng đế", đến ngày
17 tháng 3 năm 916 thì Gia Luật A Bảo Cơ đăng cơ, xưng là "Đại Thánh Đại Minh Thiên hoàng đế", quốc hiệu là "Khiết Đan". Năm 918, Gia Luật A Bảo Cơ định đô tại phủ Lâm Hoàng (nay là Nam Ba La thành,
Ba Lâm Tả,
Xích Phong,
Nội Mông). Năm 947,
Gia Luật Đức Quang nam hạ
Trung Nguyên, diệt triều
Hậu Tấn, sau đó cải quốc hiệu thành "Đại Liêu",
[chú thích 2] năm
983 thời
Liêu Thánh Tông thì đổi quốc hiệu thành "Khiết Đan", năm
1066 thời
Liêu Đạo Tông thì đổi về thành "Đại Liêu",
[2]:225 đến
25 tháng 3 năm 1125 thì bị
Kim tiêu diệt. Sau khi triều Liêu diệt vong,
Gia Luật Đại Thạch kéo các thuộc hạ còn lại dời về phía tây, đến lưu vực
sông Chuy ở miền bắc
Kyrgyzstan và miền nam
Kazakhstan, lập ra
Tây Liêu vào năm
1132. Năm
1211, Tây Liêu bị
Khuất Xuất Luật soán vị, cuối cùng bị
đế quốc Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1218.Quan điểm rộng rãi nhất trong giới sử học cho rằng từ "Khiết Đan" có ý chỉ sắt tinh luyện hoặc đao kiếm
[chú thích 3] Và sau này cải quốc hiệu thành "Liêu" thì cũng là có ý là sắt, đồng thời "Liêu" cũng là tên vùng đất phát tường của người Khiết Đan- lưu vực
Liêu Thủy. Người Khiết Đan và chính quyền Trung Nguyên ở phương nam trường kỳ đối kháng, họ tự gọi mình là "
Bắc triều", và gọi triều đại Trung Nguyên là "
Nam triều".
[3]Thời toàn thịnh, triều Liêu có cương vực đến
biển Nhật Bản ở phía đông, tây đến
dãy núi Altay, bắc đến khu vực
sông Argun-
Đại Hưng An lĩnh, nam đến sông Bạch Câu ở nam bộ tỉnh
Hà Bắc. Tộc Khiết Đan vốn là một dân tộc du mục, hoàng đế Liêu khiến cho nông-mục nghiệp cùng phát triển phồn vinh, lập ra thể chế quản lý độc đáo và tương đối hoàn chỉnh. Triều Liêu đặt trọng tâm vào vùng đất phát tường dân tộc Khiết Đan, thống trị riêng rẽ dân tộc du mục và dân tộc nông nghiệp để bảo tồn đặc tính dân tộc, chủ trương dựa theo tập quán mà cai trị, khai sáng ra thể chế chính trị
lưỡng viện chế. Đồng thời, người Khiết Đan cũng tạo ra
văn tự Khiết Đan, bảo tồn
văn hóa của mình. Ngoài ra, Liêu cũng tiếp thu văn hóa từ
Bột Hải,
Ngũ Đại, Bắc Tống,
Tây Hạ và các nước
Tây Vực, có hiệu quả trong việc xúc tiến các mặt
chính trị,
kinh tế, văn hóa phát triển. Lực lượng quân sự và tầm ảnh hưởng của Liêu bao trùm cả khu vực Tây Vực, vì vậy sau khi
triều Đường diệt vong, các nước
Trung Á,
Tây Á, và
Đông Âu xem triều Liêu (Khiết Đan) là danh xưng đại diện cho Trung Quốc.
[4]:3
Triều đại Trung QuốcNghệ thuật Trung Quốc