Tây Vực (
chữ Hán: 西域,
bính âm: Xi-yu hoặc Hsi-yu) là cách
người Trung Quốc ngày xưa gọi các nước nằm ở
phía Tây của
Trung Quốc. Nó được ghi chép trong các biên niên sử Trung Hoa từ khoảng thế kỷ 3 TCN tới thế kỷ 7 và để nói tới khu vực ở phía tây
Ngọc Môn quan và
Dương quan, phần lớn là để chỉ
Trung Á hay là phần phía đông nhất của nó, nghĩa là khu vực
bồn địa Tarim. Đến thời nhà Đường thì người ta gọi nó là Thích Tây (碛西).Không rõ người Trung Quốc bắt đầu dùng từ Tây Vực với nghĩa trên từ thời nào. Sách
Sử ký của
Tư Mã Thiên có đề cập đến các nước ở phía tây, nhưng không gọi họ là Tây Vực. Sách
Hán thư, phần Tây Vực truyện có lẽ là tài liệu đầu tiên dùng từ Tây Vực. Mặc dù phần Tây Vực truyện của Hán thư khi đề cập đến khu vực còn nhắc tới cả những nước mà ngày nay chính là
Kyrgyzstan,
Ấn Độ,
Iran, v.v... song theo miêu tả về địa lý của Tây Vực trong sách này, thì Tây Vực được bao bọc bởi những
dãy núi lớn, giữa có
sông, khoảng cách Đông-Tây chừng hơn 6.000 dặm, khoảng cách Bắc-Nam khoảng hơn 1.000 dặm. Như vậy, Tây Vực theo Hán thư có thể chính là
bồn địa Tarim ở
Tân Cương. Sau này, các chính sử Trung Quốc đều đề cập đến Tây Vực mà phạm vi địa lý không khác gì Hán thư đã miêu tả.Vào
thế kỷ 18,
nhà Thanh đã chinh phục hoàn toàn Tây Vực và đặt nó dưới sự quản lý hành chính của chính quyền trung ương Trung Quốc. Năm
1884, khu vực này được đặt thành một tỉnh của Trung Quốc, chính là Tân Cương.