Trần Minh Tông (
chữ Hán: 陳明宗
4 tháng 10 năm
1300 –
10 tháng 3 năm
1357) tên thật là
Trần Mạnh (陳奣), là vị
hoàng đế thứ năm của
Hoàng triều Trần nước
Đại Việt. Ông giữ ngôi từ ngày
3 tháng 4 năm
1314 đến ngày
15 tháng 3 năm
1329, sau đó làm
Thái thượng hoàng đến khi
qua đời. Thời kỳ của ông và cha ông được mệnh danh là thời kỳ hưng thịnh của vương triều nhà Trần, được sử gia xưng tụng là Anh Minh Thịnh Thế.Trần Mạnh là con thứ tư của
Trần Anh Tông, được vua cha lập làm thái tử năm 1305. Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi lên làm
Thượng hoàng, Trần Mạnh đăng cơ ở tuổi 14, tức Hoàng đế Minh Tông. Ông được sử cũ khen ngợi là một hoàng đế anh minh, trọng dụng các quan viên có năng lực như
Trương Hán Siêu,
Nguyễn Trung Ngạn,
Đoàn Nhữ Hài,
Phạm Sư Mạnh,..., dùng luật nghiêm minh và duy trì sự hưng thịnh kinh tế – xã hội.
[1][2] Tuy nhiên, cuối thời ông trị vì, mâu thuẫn trở nên gay gắt giữa các phe đối lập trong triều đưa đến những vụ thanh toán tàn khốc mà nhà vua tỏ ra bất lực.
[3] Về đối ngoại, Minh Tông giữ được quan hệ ổn định với
Nguyên-Mông; ở phương Nam, ông buộc
Chiêm Thành phải thần phục dù đến năm 1326, người Chiêm thoát lệ thuộc vào Đại Việt.
[4][2]Năm 1329, Trần Minh Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Vượng (tức
Trần Hiến Tông), được tôn làm Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng Đế (章堯文哲太上皇帝). Đến năm 1341, Hiến Tông mất; Thượng hoàng lập con áp út là Trần Hạo (
Trần Dụ Tông) lên ngôi. Trong 12 năm tại vị của Hiến Tông và 16 năm đầu thời Dụ Tông, Thượng hoàng Minh Tông vẫn quyết định mọi việc triều chính. Tình hình Đại Việt vẫn tương đối ổn định, mặc dù khu vực phía Tây thường bị
Ai Lao và Ngưu Hống xâm lấn. Thượng hoàng phải mất nhiều công sức mới dẹp yên được. Sau khi Thượng hoàng mất, Dụ Tông bỏ bê chính sự, ăn chơi sa đọa và thực lực Đại Việt xuống dốc.
[5]Cũng như các đời vua trước, Trần Minh Tông ưa chuộng
Phật giáo[6], nhưng cũng trọng dụng Nho thần, và hay sáng tác
thơ,
văn. Tuy nhiên, trong lúc lâm chung, ông đã sai đốt hầu hết các tập thơ của mình, và ngày nay chỉ còn 25 bài thơ chép rải rác trong
Toàn Việt thi lục, Trần triều thế phả hành trạng,
Việt âm thi tập,
Đại Việt sử ký toàn thư và
Nam Ông mộng lục. Ngoài ra, ông cũng viết bài tựa cho tập Đại hương hải ấn thi của
Trần Nhân Tông.
[3]