Trần Anh Tông (
chữ Hán: 陳英宗
25 tháng 10 năm
1276 –
21 tháng 4 năm
1320) tên khai sinh là
Trần Thuyên (陳烇), là vị
hoàng đế thứ tư của
Hoàng triều Trần nước
Đại Việt. Ông ở ngôi từ tháng 4 năm
1293 đến tháng 4 năm
1314, rồi làm
Thái thượng hoàng từ năm 1314 đến khi qua đời. Trong thời gian trị vì ông chỉ có một
niên hiệu là
Hưng Long (興隆), nên cũng có thể gọi ông là
Hưng Long Đế (興隆帝).Trần Thuyên là đích trưởng tử của
Trần Nhân Tông (vua thứ 3 triều Trần). Năm 1293, sau khi đánh bại các đợt xâm lược của Nguyên-Mông, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, tức Hoàng đế Anh Tông. Theo bộ chính sử
Đại Việt,
Đại Việt Sử ký Toàn thư, Trần Anh Tông ban đầu khá buông thả, mê rượu chè, nhưng sau khi
Thượng hoàng Trần Nhân Tông nghiêm khắc răn bảo, đã chịu tu sửa mình, trở thành một hoàng đế anh minh sáng suốt, tin dùng những nhân tài như
Trương Hán Siêu,
Đoàn Nhữ Hài,
Nguyễn Trung Ngạn (ban văn) và
Phạm Ngũ Lão,
Trần Nhật Duật (ban võ).
[1] Trong thời kỳ trị vì của ông, Đại Việt phát triển hưng thịnh, dù phải chống lại một số đợt xâm lấn của
Ai Lao trên hướng Tây.
[2][3] Vua Anh Tông sử dụng tướng tài Phạm Ngũ Lão đánh bại quân Ai Lao. Ông còn ngăn chặn sự lấn chiếm của
người Nguyên ở biên giới phía Bắc, và mở rộng lãnh thổ
Đại Việt về phương Nam thông qua cuộc hôn nhân giữa
Huyền Trân công chúa (em gái ông) với
vua Chiêm Thành.
[4][5] Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức vua
Trần Minh Tông) vào năm 1314, Thượng hoàng Anh Tông tiếp tục hỗ trợ Minh Tông cai quản nước Việt.Giống như các tiên đế, Trần Anh Tông là một
Phật tử mộ đạo. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia và sáng lập
Thiền phái Trúc Lâm – giáo hội thống nhất đầu tiên của
Phật giáo Việt Nam. Trần Anh Tông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của giáo hội này, qua việc khuyến khích các
thiền sư phái Trúc Lâm thuyết pháp ở nhiều nơi, cúng dường tiền của, vật liệu cho việc xây chùa, tháp và vận động các thành viên hoàng gia làm thế. Ông cũng hay sáng tác thơ ca, nhưng ngày nay chỉ còn 12 bài chép trong
Việt âm thi tập.