Tiếng Chăm
Tiếng Chăm hay
tiếng Champa là ngôn ngữ của
người Chăm ở
Đông Nam Á, và trước đây là ngôn ngữ của
Vương quốc Chăm Pa ở
miền Trung Việt Nam [1][3]. Phương ngữ Chăm Tây được nói bởi 220.000 người ở Campuchia và 25.000 người ở Việt Nam; phương ngữ Chăm Đông (Chăm Phan Rang), có khoảng 73.000 người nói ở Việt Nam
[4], với tổng số khoảng 320.000 người nói.Tiếng Chăm Tây được sử dụng bởi người Chăm ở Campuchia cũng như các tỉnh lân cận Việt Nam như
An Giang và
Tây Ninh. Chăm Đông được nói bởi những người Chăm ven biển ở các tỉnh
Bình Thuận,
Ninh Thuận và
Đồng Nai của
Việt Nam. Hai vùng nói tiếng Chăm bị tách biệt cả về địa lý và văn hóa. Người Chăm Tây chủ yếu là theo
Hồi giáo (mặc dù một số người ở Campuchia hiện đang tu theo
Phật giáo Nguyên thủy ), trong khi người Chăm Đông theo cả
Hồi giáo và
Ấn Độ giáo. Dân tộc học nói rằng phương ngữ phương Đông và phương Tây không còn dễ hiểu lẫn nhau.Đây là một ngôn ngữ thuộc
ngữ tộc Malay-Polynesia của
ngữ hệ Nam Đảo, được 800.000 người ở
Việt Nam, 900.000 người ở
Campungcham, Campuchia (1993) và một số nhỏ ở
Thái Lan và
Malaysia sử dụng.Tiếng Chăm đáng chú ý là ngôn ngữ thuộc
ngữ hệ Nam Đảo được chứng thực lâu đời nhất, với
bia ký Đông Yên Châu được xác minh có niên đại vào cuối thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên.Các ngôn ngữ thuộc nhóm Chăm khác được nói ở Việt Nam là
Ra-glai,
Ê Đê,
Gia Rai,
Chu Ru,
H'roi tức người Hời
[lower-alpha 1] và
tiếng Tsat[5] của một dân tộc thiểu số tại đảo
Hải Nam. Tiếng Chăm có liên hệ với
các ngôn ngữ Malay-Polynesia khác tại
Indonesia, đặc biệt là
Người Aceh và
Minangkabau, đa số sinh sống tại
Indonesia và
Malaysia,
Madagascar và
Philippines.Chữ viết Chăm được sử dụng để viết tiếng Chăm. Bộ chữ cái này bắt nguồn từ
chữ Phạn thuộc hệ Bhrami. Trước đây chữ viết Chăm bị hạn chế phát triển, nay được giảng dạy rộng rãi trong các trường của địa phương.