Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī) là tên dịch theo âm, thường được gọi tắt là
Văn-thù, dịch nghĩa là
Diệu Đức (zh. 妙德),
Diệu Cát Tường (zh. 妙吉祥), cũng có lúc được gọi là
Diệu Âm (zh. 妙音), dịch từ tên
tiếng Phạn là Mañjughoṣa, là một vị
Bồ Tát tượng trưng cho trí huệ, một trong những vị Bồ Tát quan trọng của
Phật giáo. Lần đầu tiên người ta nhắc đến Văn-thù trong tác phẩm
Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ (sa. ārya-mañjuśrī-mūlakalpa) ở
thế kỉ thứ 4. Tranh tượng trình bày Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh
Bát-nhã-ba-la-mật-đa, được vẽ khoảng ngang đầu. Người ta xem đó là biểu tượng trí huệ phá đêm tối của
Vô minh. Về sau chúng ta thường thấy Văn-thù cưỡi trên một con
sư tử.Trong
Phật giáo Tây Tạng, các vị luận sư xuất sắc như
Tông-khách-ba thường được xem là hiện thân của Văn-thù (
Châu-cô). Dưới tên Diệu Âm (zh. 妙音),"Người với tiếng nói êm dịu", Văn-thù Bồ Tát thường được tán tụng trước khi hành giả nghiên cứu kinh điển, nhất là kinh điển thuộc hệ
Bát-nhã-ba-la-mật-đa và học thuyết của
Trung quán tông. Văn-thù là vị Bồ Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ, đạt được bằng phương tiện tri thức.Văn-thù cũng xuất hiện dưới dạng một
Thần thể (sa. iṣṭadevatā, sādhita, bo. yidam) phẫn nộ, có tên gọi là Diêm-mạn-đức-ca –"Người chiến thắng tử thần"(sa. yamāntaka), có dạng vị thần mang đầu bò. Dạng này là Thần thể quan trọng của
phái Cách-lỗ tại
Tây Tạng.Theo truyền thống
Phật giáo Trung Quốc, Văn-thù được
Phật Thích-ca đích thân giao phó việc truyền bá Phật pháp tại đây và
Ngũ Đài sơn chính là nơi Bồ Tát thuyết pháp. Vì vậy, Ngũ Đài sơn cũng được xem là trụ xứ của Văn-thù (xem
Tứ đại danh sơn). Một thuyết khác bảo rằng, Bồ Tát đã từng xuất hiện tại Trung Quốc trong thế kỉ 1, đời Hán Minh Đế. Câu niệm danh hiệu của vị bồ tát này là:"Nam mô đại trí văn thù sư lợi bồ tát".