Trần Thái Tông (
chữ Hán: 陳太宗
9 tháng 7 năm
1218 –
5 tháng 5 năm
1277), tên khai sinh là
Trần Cảnh (陳煚), là vị
hoàng đế đầu tiên của
Hoàng triều Trần nước
Đại Việt. Ông giữ ngôi từ ngày
10 tháng 1 năm
1226 tới ngày
30 tháng 3 năm
1258, sau đó làm
Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời năm
1277.Trần Cảnh sinh ra vào
thời Lý, quê ở làng Tức Mặc (
Thiên Trường). Lên 7 tuổi, ông được người chú họ, Điện tiền Chỉ huy sứ
Trần Thủ Độ tiến cử làm Chi hậu chính chi ứng cục, hầu hạ cho
nữ hoàng nhỏ tuổi
Lý Chiêu Hoàng. Cuối năm
1225 – đầu năm
1226,
Trần Thủ Độ buộc
Lý Chiêu Hoàng cưới và nhường ngôi cho Trần Cảnh, tức Hoàng đế Trần Thái Tông. Tân hoàng đế mời cha là
Trần Thừa làm
Thái thượng hoàng, Trần Thủ Độ làm
Thái sư, lại phong Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu.
[1] 12 năm sau,
Trần Thủ Độ ép Thái Tông phế Chiêu Thánh vì không sinh được người kế vị, và lập chị Chiêu Thánh là
Thuận Thiên lên thay.
Thuận Thiên vốn là
vợ của anh Thái Tông là
Trần Liễu, và khi ấy đang có thai với
Trần Liễu 3 tháng. Việc này đã khiến
Trần Liễu làm loạn ở sông Cái, nhưng cuối cùng bị thất thế,
Trần Thủ Độ muốn giết nhưng Thái Tông can thiệp, tha chết cho anh mình.
[2]Cùng với
Thượng hoàng Trần Thừa (mất năm
1234) và
Thái sư Trần Thủ Độ (mất năm
1264), Trần Thái Tông đã tiến hành cải tổ luật pháp, hành chính, đồng thời khuyến khích nông, thương nghiệp và phát triển nền giáo dục
Tam giáo đồng nguyên. Ông cũng xây dựng quân đội mạnh và ngăn chặn quân
Chiêm Thành cướp phá mạn nam.
[2] Theo nhà chép sử
Lê Tung đời
Lê sơ: "chế độ nhà Trần do đấy hưng thịnh".
[3] Trong thời gian đó, trên hướng bắc
Đại Việt, dân tộc
Mông Cổ đã trỗi dậy thành một đế quốc quân sự lớn. Năm 1258, tướng Mông Cổ
Uriyangqatai đem quân
tấn công Đại Việt. Trần Thái Tông trực tiếp lãnh đạo kháng chiến và cuối cùng đã đánh bại người
Mông Cổ.
[4] Không lâu sau chiến thắng, ông nhường ngôi cho
Thái tử Hoảng, tức Hoàng đế
Trần Thánh Tông, và được tôn làm
Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế (顯堯聖壽太上皇帝). Thượng hoàng vẫn có ảnh hưởng lớn đến việc triều chính cho đến khi mất năm 1277.
[5] Ông còn là một
thiền sư Phật giáo, đã truyền dạy kinh nghiệm tu hành của mình qua các tác phẩm
Khóa hư lục,
Thiền tông chỉ nam,
Chú giải Kinh Kim cương Tam muội và
Lục thời sám hối khoa nghi. Ông được xem là người có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành
Thiền phái Trúc Lâm – giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật tại
Việt Nam – vào cuối
thế kỷ XIII.
[6]