Erich von Manstein (
24 tháng 11 năm
1887 –
10 tháng 7 năm
1973) là một
chỉ huy cấp cao của
quân đội Đức thời
Đệ tam Đế chế. Ông được thăng đến
cấp hàm Thống chế trong
Chiến tranh thế giới thứ hai. Theo nhận định của
B. H. Liddell Hart – một chiến lược gia quân sự có tên tuổi người Anh, Manstein là vị tướng giỏi nhất của
Đức Quốc xã.
[1]Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc
Phổ có truyền thống
quân sự lâu đời, Manstein nhập ngũ từ sớm và tham chiến nhiều mặt trận trong
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918). Thế chiến 1 kết thúc, ông tích cực tham gia khôi phục
các lực lượng vũ trang Đức và thăng cấp từ
Đại úy lên
Trung tướng. Khi
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
tháng 9 năm
1939, ông làm Tham mưu trưởng Cụm Tập đoàn quân Nam, cùng Tư lệnh
Gerd von Rundstedt đem quân vào chiếm Ba Lan. Ông còn là tác giả chính của
kế hoạch chinh phục Pháp và Tây Âu năm 1940. Phán đoán rằng quân Đồng Minh sẽ phản ứng mạnh nếu Đức chọn
Hà Lan làm hướng tấn công chính, Manstein đề xuất cho mũi chủ công xuyên qua
Ardennes – nơi
Đồng Minh coi là "bất khả xâm phạm" – rồi thọc sâu về
eo biển Anh, cô lập quân chủ lực của
Anh-
Pháp tại
Bỉ và
Flanders. Được lên chức
Thượng tướng Bộ binh sau
chiến thắng Tây Âu, ông
tham gia tiến công xâm lược Liên Xô vào
tháng 6 năm
1941 và
vây hãm Sevastopol suốt 8 tháng. Sevastopol thất thủ, Manstein được trao gậy Thống chế ngày
1 tháng 7 năm 1942.
[2][3] Sau đó ông tham gia
cuộc vây hãm Leningrad.Vận mệnh nước Đức trở nên xấu đi từ cuối năm 1942, đặc biệt là trong
trận thảm bại tại Stalingrad. Tháng 12 năm đó, Manstein dẫn một đạo quân đi cứu viện cho
mặt trận Stalingrad nhưng không thành công. Khi
quân đội Liên Xô thừa thắng phản kích, Manstein giáng
một đòn "hồi mã thương" vào
Kharkov, đánh tơi tả 52 sư đoàn Liên Xô và lấy lại một vùng đất rộng lớn vào
tháng 2 –
tháng 3 năm
1943.
[4] Tiếp sau đó, ông chỉ huy cánh quân phía nam đánh
trận Vòng cung Kursk (tháng 7–tháng 8 năm 1943), một trong những trận chiến xe tăng lớn nhất trong
lịch sử thế giới. Những bất đồng giữa ông với
Adolf Hitler đã dễn đến việc Manstein bị sa thải vào tháng 3 năm 1944. Vài tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ông bị người Anh bắt làm
tù binh vào tháng 8 năm 1945. Năm 1949, ông bị tuyên án 18 năm tù vì các tội ác nhằm vào tù binh và dân thường ở Đông Âu, nhưng được thả tự do chỉ sau 4 năm ngồi tù, một phần là vì lý do sức khỏe. Trong
thập niên 1950, Mastein trở thành cố vấn cao cấp cho
Cộng hòa Liên bang Đức và góp phần kiến thiết lực lượng vũ trang của nhà nước này.
[5]