Đế quốc Đông La Mã còn được gọi
Đế quốc Byzantium,
Đế quốc Byzantine,
Đế quốc Byzance là một
đế quốc tồn tại từ năm 330 đến năm 1453, đóng đô ở
Constantinopolis. Trước khi thành lập, phạm vi của Đế quốc Đông La Mã trước đây nằm trong lãnh thổ của
Đế quốc La Mã. Năm 330, khi
Constantinus I, con của hoàng đế
Constantius, nắm quyền trị vì và dời đô từ thành
La Mã về Constantinopolis, được xem là thời điểm thành lập đế quốc Đông La Mã. Khi ông qua đời, đế quốc bị các con trai ông phân chia thành Đông và Tây. Sau khi vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc phía tây là
Romulus Augustus bị một thủ lĩnh người
Giéc-man hạ bệ,
đế quốc Tây La Mã sụp đổ. Nhưng đế quốc phía đông vẫn tiếp tục phát triển, trở thành một
cường quốc có vai trò quan trọng ở
châu Âu và được xem là một trong những trung tâm
đạo Ki-tô lúc bấy giờ.Không thấy một tư liệu chính xác nào về sự khởi đầu của đế quốc Đông La Mã. Một vài ý kiến cho rằng đế quốc này được thành lập dưới thời cai trị của Hoàng đế
Diocletianus (284–305), người đã chia đế quốc La Mã thành hai nửa đông và tây. Một vài người lại nói rằng đế quốc bắt đầu vào thời của Constantinus I, vị hoàng đế đầu tiên đóng đô tại Constantinopolis. Những ý kiến khẳng định vào thời trị vì của Hoàng đế
Theodosius I (379–395) hoặc theo sau cái chết của ông vào năm 395. Một vài người cho vào thời điểm xa hơn vào năm 476 khi đế quốc phía tây sụp đổ. Nhưng hiện nay tư liệu khá chính xác là vào năm 330, khi Constantinus I thành lập
tân đô Constantinopolis dưới sự phát triển vượt bậc của văn hóa
Ki-tô giáo và thời kỳ văn hóa chịu ảnh hưởng Hy Lạp (quá trình Hy Lạp hóa văn hóa). Đế quốc Đông La Mã đã tồn tại hơn một ngàn năm, từ thế kỷ thứ 4 cho đến năm
1453. Trong thời gian tồn tại của nó, Đông La Mã vẫn là một trong những cường quốc kinh tế, văn hóa, và quân sự lớn mạnh nhất ở châu Âu, bất chấp những thất bại và mất mát lãnh thổ, đặc biệt là trong cuộc
Chiến tranh La Mã-Ba Tư và
Chiến tranh Ả Rập-Đông La Mã. Đế quốc sau đó đã phục hưng dưới
triều đại Macedonia, một lần nữa Đông La Mã vươn lên thành liệt cường hàng đầu của vùng Đông Địa Trung Hải vào cuối thế kỷ thứ 10, đối địch với
Nhà Fatima của người
Hồi giáo.Tuy nhiên, sau năm
1071, nhiều lãnh đổ ở
Tiểu Á - trung tâm của đế quốc, bị
người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk chiếm đoạt. Mặc dù Vương triều
nhà Komnenos đã giành lại một số đất đai và hưng thịnh lại Đế quốc trong một thời gian ngắn trong thế kỷ thứ 12, sau khi Hoàng đế
Andronikos I Komnenos qua đời và Vương triều Komnennos cáo chung ở cuối thế kỷ thứ 12, một lần nữa Đế quốc lâm vào suy vong. Đế quốc Đông La Mã bị
cuộc Thập tự chinh lần thứ tư giáng một đòn chí mạng vào năm
1204, khiến Đế quốc bị giải thể và các lãnh thổ
La Tinh và Hy Lạp thuộc Đông La Mã bị chia cắt.
Sự sụp đổ của thành Constantinopolis, kinh đô của
Đế quốc Đông La Mã, xảy ra sau một cuộc vây hãm bởi
Đế chế Ottoman, dưới sự chỉ huy Sultan
Mehmed II của Ottoman lúc mới 21 tuổi, chống lại quân đội bảo vệ được chỉ huy bởi Hoàng đế Constantinos XI Palaiologos. Cuộc bao vây kéo dài từ 6 tháng 4 năm 1453 cho đến 29 tháng 5 năm 1453, khi thành phố bị chinh phục bởi Đế quốc Ottoman.Việc chiếm giữ Constantinopolis (và hai vùng lãnh thổ khác còn lại của Byzantine ngay sau đó) đánh dấu sự kết thúc của đế chế La Mã, một đế quốc đã kéo dài gần 1.500 năm. Đó cũng là một cú đánh lớn theo đạo Cơ đốc, và Ottoman sau đó được tự do để tiến vào châu Âu mà không có một đối thủ phía sau nào ngăn cản. Sau cuộc chinh phục, Mehmed biến Constantinopolis thành thủ đô mới của Đế quốc Ottoman. Một số trí thức Hy Lạp và không Hy Lạp đã bỏ chạy khỏi thành phố trước và sau cuộc bao vây, đặc biệt là di cư đến Italia. Người ta lập luận rằng họ đã giúp tạo nên sự phôi thai cho
thời kỳ Phục hưng. Một số người đánh dấu kết thúc của
thời Trung Cổ bởi sự sụp đổ của thành phố và đế quốc Đông La Mã. [
Đọc tiếp ]
Basiliscus (mất
476/
477) là
Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm
475 đến
476. Ông là một thành viên xuất thân từ dòng họ Leo, bắt đầu nắm quyền hành khi tiến hành cuộc nổi dậy buộc Hoàng đế
Zeno phải trốn khỏi
Constantinopolis. Basiliscus là em trai Hoàng hậu Aelia Verina, vợ của Hoàng đế
Leo I (
457–
474). Mối quan hệ của ông với Hoàng đế cho phép ông theo đuổi binh nghiệp, sau khi đạt được những thành công nhỏ ban đầu, thì trong cuộc xâm chiếm lãnh thổ rợ
Vandal ở
châu Phi của người
La Mã dưới quyền chỉ huy của ông đã thất bại thảm hại vào năm
468, được coi là một trong những chiến dịch quân sự lớn nhất cuối thời cổ đại. Basiliscus đã thành công trong việc chiếm đoạt quyền lực vào năm 475, lợi dụng sự bất mãn của dân chúng với Hoàng đế Zeno vốn có gốc gác “mọi rợ” kế thừa tiên đế Leo và kết quả là khiến cho phe cánh Thái hậu Verina tiến hành đảo chính đã buộc ông phải trốn khỏi Constantinopolis. Tuy nhiên khi đã yên vị, trong suốt triều đại ngắn ngủi của mình, Basiliscus đã để mất sự ủng hộ của
Giáo hội và dân chúng Constantinopolis, chỉ vì lý do đề bạt và cất nhắc những vị trí
thần học cho phái Miaphysite mà ông là tín đồ đối lập với đức tin của phái Chalcedonian. Ngoài ra, chính sách của ông chỉ để bảo vệ quyền lực của mình thông qua việc bổ nhiệm những kẻ thân tín giữ những chức vụ trọng yếu gây ra sự chống đối với nhiều nhân vật quan trọng trong triều đình bao gồm cả người chị Verina. [
Đọc tiếp ]Ảnh: Petar MiloševićChủ đề Đế quốc Đông La Mã đang được xây dựng nên rất cần sự giúp đỡ, đóng góp của các bạn về nội dung lẫn giao diện. Các bạn có thể: