Hoàng đế La Mã là danh hiệu mà giới sử học dùng để gọi những người cai trị
La Mã trong thời đại
đế chế. Về mặt từ nguyên, từ "hoàng đế" (tiếng Anh:Emperor, tiếng Pháp:Empereur) bắt nguồn từ danh hiệu "Imperator" trong tiếng Latin, có nghĩa là "người cai trị đế quốc". Người được xem là hoàng đế La Mã đầu tiên,
Augustus, luôn tuyên bố mình là một công dân của nền
Cộng hòa chứ không phải một vị
vua theo kiểu phương Đông. Giống ông, những Hoàng đế sau đó coi danh hiệu của mình là một chức trách của nguyên thủ quốc gia-công dân thứ nhất, đồng thời là tổng chỉ huy quân đội và trong nhiều trường hợp là cả vai trò trong tôn giáo nhà nước.Vì lý do trên, danh hiệu hoàng đế La Mã không thực sự là
cha truyền con nối ít ra là trên danh nghĩa. Tuy nhiên từ thời
Diocletianus, nền cai trị càng lúc càng trở nên có tính cách
quân chủ. Đế quốc La Mã bị phân chia làm đôi từ thế kỷ IV và từ đó, trong khi
đế quốc Tây La Mã nhanh chóng lụn bại, vị hoàng đế cuối cùng của
Roma,
Romulus Augustus phải thoái vị năm 476 thì
đế quốc Đông La Mã hấp thu các yếu tố Đông phương trong đó có việc quân chủ hóa nền cai trị. Các vị Hoàng đế
Byzantine tập trung quyền lực tối cao vào bản thân, gồm cả các yếu tố
thần quyền, và tiếp tục trị vì cho tới năm 1453.