Thời đại đồ đồng đá hay
thời đại đồng đá,
thời kỳ đồ đồng đá,
thời kỳ đồng đá, nguyên gốc từ cụm từ trong
tiếng Hy Lạp χαλκόςλίθος (khalkoslithos nghĩa là
đồng đá), tại một số nước châu Âu được gọi là Copper Age (
Anh)/Edad del Cobre (
Tây Ban Nha)/Aevum cupri (
La tinh)/Kupfersteinzeit (
Đức)/Медный век (
Nga) v.v đều có nghĩa là thời kỳ /đại đồ đồng [kim loại]. Tuy nhiên cụm từ
thời đại đồ đồng trong tiếng Việt lại được dùng để chỉ giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn này. Trong các văn bản khoa học còn có thể gọi là Eneolithic (Æneolithic). Nó là một giai đoạn trong sự phát triển các nền văn hóa của con người, trong đó việc sử dụng các
công cụ bằng
kim loại đã xuất hiện, cùng với việc sử dụng các công cụ bằng đá.Thời kỳ này là giai đoạn chuyển tiếp bên ngoài
hệ thống ba thời đại kinh điển, và nó diễn ra giữa
thời đại đồ đá mới và
thời đại đồ đồng. Nó biểu hiện ở chỗ
đồng chưa được khai thác nhiều và các cố gắng đầu tiên trong việc tạo hợp kim của đồng với
thiếc và các kim loại khác đã diễn ra khá sớm, làm cho việc phân biệt các nền văn hóa và/hoặc thời kỳ đồng đá khác biệt là rất khó.Sự xuất hiện của nghề
luyện kim đã diễn ra đầu tiên ở
Vùng lưỡi liềm màu mỡ (bao gồm
Levant,
Lưỡng Hà cổ đại,
Ai Cập cổ đại), nơi các nền văn hóa đã chuyển vào
thời đại đồ đồng từ
thiên niên kỷ 4 TCN. Sự phát minh độc lập và hạn chế của
luyện kim tại Trung Mỹ tiền-Columbus hình thành trong
thế kỷ 7 không được coi là gắn liền với giai đoạn "đồng đá".Thời đại đồng đá ở Trung Đông và
Kavkaz bắt đầu vào cuối
thiên niên kỷ 5 TCN và kéo dài khoảng một thiên niên kỷ trước khi chuyển qua giai đoạn
đồ đồng sớm. Sự chuyển tiếp của thời đại đồng đá sang thời đại đồ đồng ở châu Âu diễn ra khoảng 1 thiên niên kỷ muộn hơn, vào khoảng cuối thiên niên kỷ 4-3 TCN.Theo Parpola
[1], các nét tương đồng đồ gốm của
văn minh sông Ấn, miền nam
Turkmenistan và miền bắc
Iran trong giai đoạn 4300–3300 TCN của thời đại đồng đá cho thấy tính lưu động và thương mại đáng kể.