Thiệu Trị (
chữ Hán: 紹治
16 tháng 6 năm
1807 –
4 tháng 11 năm
1847),
húy là
Nguyễn Phúc Dung (阮福曧), sau cải thành
Nguyễn Phúc Miên Tông (阮福綿宗), là vị
hoàng đế thứ ba của
nhà Nguyễn nước
Đại Nam. Ông kế vị vua cha là
Minh Mạng, trị vì từ năm
1841 đến khi qua đời, tổng cộng 7 năm, được truy tôn miếu hiệu là
Hiến Tổ (憲祖),
thụy hiệu Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (憲祖章皇帝). Trong thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là Thiệu Trị nên thường được gọi theo tên này.Thiệu Trị được sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác
Nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không đưa ra cải cách gì mới, chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự... từ thời
Minh Mạng. Khi Thiệu Trị lên ngôi, chính sách bành trướng của Minh Mạng đã khiến lãnh thổ
Đại Nam đạt đến mức rộng nhất trong lịch sử của nó. Đại Nam đô hộ vùng đông nam
Chân Lạp, đặt ra
Trấn Tây Thành nhưng sự hà khắc của quan quân Việt đã gây nên sự căm phẫn và nổi dậy liên miên của người Chân Lạp. Thiệu Trị bèn xuống lệnh rút quân khỏi Trấn Tây Thành. Liên quân
Xiêm La-
Chân Lạp nhân đó đánh phá biên giới Tây Nam, Thiệu Trị sai nhiều tướng giỏi như
Lê Văn Đức,
Nguyễn Tri Phương,
Doãn Uẩn,... mang quân chống lại. Quân Đại Nam đánh bại Xiêm La rồi truy kích vào đất Chân Lạp. Năm
1845, Đại Nam và Xiêm La ký hòa ước chia nhau quyền bảo hộ Chân Lạp, vùng biên phía Tây cuối cùng đã được tạm yên, nhưng cũng từ đây quá trình
mở đất về phương Nam của người Việt bị khựng lại.Sau khi kết thúc chiến tranh với Xiêm La, Thiệu Trị phải đương đầu với mối đe dọa xâm lược càng lúc càng gia tăng từ
Pháp. Đỉnh điểm là trận cửa biển
Đà Nẵng (
1847) khi quân thuyền Pháp bắn chìm 5 chiếc thuyền đồng của thủy quân
Đại Nam. Thất bại này khiến hoàng đế hết sức tức giận và lo lắng, nhưng cho đến khi chết, Thiệu Trị và quần thần vẫn không thể tìm ra phương sách hợp lý để đối phó. 10 năm sau cái chết của Thiệu Trị (
1858), Pháp nổ súng xâm lược Đại Nam, mở đầu thời kỳ
Việt Nam bị Pháp đô hộ.