Tự Đức (
chữ Hán: 嗣德
22 tháng 9 năm
1829 –
19 tháng 7 năm
1883) tên thật là
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành
Nguyễn Phúc Thì (阮福時), là vị
hoàng đế thứ tư của
triều Nguyễn. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm
1847 đến
1883, ông được truy tôn miếu hiệu là
Nguyễn Dực Tông (阮翼宗). Trong suốt thời gian trị vì của mình ông chỉ sử dụng duy nhất một niên hiệu là
Tự Đức (嗣德) nên thường được gọi với tên này.Triều đại của ông đánh dấu sự suy yếu của nhà Nguyễn và nhiều sự kiện xấu với vận mệnh
Đại Nam. Quân đội nhà Nguyễn ngày càng suy yếu, kinh tế trì trệ, trong khi nhiều cuộc nội loạn diễn ra trong cả nước. Năm
1858, liên quân
Pháp-
Tây Ban Nha nổ súng
tấn công Đà Nẵng. Trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách, liên tiếp các năm từ
1864 đến
1881, các quan là
Phan Thanh Giản,
Phạm Phú Thứ,
Nguyễn Trường Tộ,
Đinh Văn Điền,
Nguyễn Hiệp,
Lê Định liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng các đình thần lại không thống nhất, nhà vua cũng không đưa ra được quyết sách dứt khoát. Mãi đến năm
1878, triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên trong quá trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng đình thần vẫn bất đồng và nảy sinh hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến khi nước
Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa.Triều đình
nhà Nguyễn ngày càng bất lực trước sự tấn công của Pháp, chỉ mong cắt đất cầu hòa. Cuối cùng, tới năm
1883, Tự Đức qua đời, ngay sau đó Pháp tấn công vào kinh đô và ép buộc nhà Nguyễn phải công nhận sự "bảo hộ" của
Pháp trên toàn Đại Nam. Nhà Nguyễn sau thời Tự Đức chỉ còn là danh nghĩa, vua Nguyễn chỉ còn là bù nhìn, thực tế thì đã mất nước vào tay Pháp.