Minh Mạng (
chữ Hán: 明命
25 tháng 5 năm
1791 –
20 tháng 1 năm
1841) hay
Minh Mệnh, là vị
hoàng đế thứ hai của
Hoàng triều Nguyễn nước
Đại Nam. Ông trị vì từ năm
1820 đến khi qua đời, được truy tôn miếu hiệu là
Nguyễn Thánh Tổ (阮聖祖). Tuy có một số chính sách sai lầm hạn chế, song giới sử gia đương đại vẫn đánh giá Minh Mạng là vị vua kiệt xuất nhất của Hoàng triều
Nhà Nguyễn.Trong 21 năm trị nước, Minh Mạng ban bố hàng loạt
cải cách về nội trị. Ông đổi tên nước
Việt Nam thành
Đại Nam, lập thêm
Nội các và
Cơ mật viện ở
Huế, bãi bỏ chức Tổng trấn
Bắc thành và
Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi.
Quân đội cũng được xây dựng hùng mạnh. Minh Mạng còn cử quan đôn đốc khai hoang ở ven biển
Bắc kỳ và
Nam kỳ. Ngoài ra, ông rất quan tâm đến việc duy trì nền khoa cử
Nho giáo, năm
1822 ông mở lại các kì
thi Hội,
thi Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài. Ông nghiêm cấm truyền bá
đạo Cơ Đốc vì cho rằng đó là thứ tà đạo làm băng hoại truyền thống dân tộc. Về đối ngoại, Minh Mạng không đưa ra cải cách nào, ông tiếp tục duy trì chính sách của
Gia Long: tự cô lập, khước từ mọi giao lưu với
phương Tây, cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, khiến
Đại Nam dần tụt hậu do không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học kỹ thuật.Thời Minh Mạng, trong nước liên tục xảy ra
nội loạn và chiến tranh. Trong nước liên tiếp xảy ra các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại triều đình (
Phan Bá Vành,
Lê Duy Lương,
Nông Văn Vân,… ở miền Bắc và
Lê Văn Khôi ở miền Nam). Trong 21 năm cai trị, đã có tới 234 cuộc nổi dậy chống triều đình trên cả nước, nhà vua phải sai nhiều tướng đánh dẹp rất mệt nhọc.Đối với các nước láng giềng, Minh Mạng sử dụng vũ lực nhiều lần: lập các phủ
Trấn Ninh, Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế
Ai Lao;
đánh bại Xiêm La; bảo hộ
Chân Lạp, chiếm vùng
Nam Vang (
Phnôm Pênh ngày nay) và đổi tên thành
Trấn Tây Thành; kết quả là nước Đại Nam thời đó có lãnh thổ rộng hơn cả hiện nay. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh đó đã làm hao mòn quốc khố nên nhà Nguyễn đã không giữ được các lãnh thổ mới đánh chiếm. Sau khi Minh Mạng mất,
Đại Nam đã phải rút quân khỏi Trấn Tây Thành, chỉ 7 năm sau khi chiếm được vùng này. Nhiều lãnh thổ khác cũng bị
Xiêm La đánh chiếm (nay thuộc về nước
Lào), nên lãnh thổ nhà Nguyễn sau thời Minh Mạng bị co hẹp lại, gần giống như Việt Nam hiện nay.