Lịch_sử_Ba_Lan

Lịch sử Ba Lan bắt đầu với cuộc di cư của người Slav vốn đã dẫn tới sự ra đời của các nhà nước Ba Lan đầu tiên vào đầu Trung cổ[1], khi các dân tộc người Ba Lan đã lập ra các tiểu quốc đầu tiên. Triều đại Piast của Ba Lan là triều đại thống nhất đầu tiên của đất nước này, xuất hiện lần đầu ở thế kỷ X. Bá tước Mieszko đệ nhất của Ba Lan (qua đời năm 992), được coi là người cha lập quốc của Ba Lan và cũng được công nhận do đã đóng vai trò trong sự truyền bá Công giáo ở Ba Lan sau khi cải đạo năm 966. Đại công quốc Ba Lan sau đó chuyển đổi thành một vương quốc vào năm 1025 bởi con ông, vua Bolesław I. Tuy nhiên vị vua thành công nhất nhà Piast mới là Kazimierz III (Casimir Đại đế), người đã biến đổi Ba Lan với một nền kinh tế thịnh vượng và mở rộng thêm nhiều lãnh thổ trước khi ông mất năm 1370 mà không có người nối dõi. Triều đại Jagiellon từ thế kỷ 14-16 có quan hệ gần gũi với Đại Công quốc Litva, thời kỳ Phục hưng Ba Lan và bành trướng lãnh thổ dẫn tới sự ra đời của khối Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva, mà Ba Lan gần như thống trị tuyệt đối.Vào thời kỳ đầu của Ba Lan-Litva, nhà nước này đã thành công trong việc gìn giữ và phát triển kinh tế, đặc biệt là trong thời kỳ Tự do ở Thịnh vượng chung. Thế nhưng, nhà nước này bắt đầu suy yếu từ giữa thế kỷ 17 do chiến tranh và nạn tham nhũng. Một số nỗ lực cải cách vào thế kỷ 18, đặc biệt là việc ban hành bản Hiến pháp ngày mùng 5 tháng Ba, bản hiến pháp lâu đời thứ hai thế giới, được xem là một sự khích lệ, song nó lại là mối nguy cho các Đế quốc láng giềng. Các lần phân chia Ba Lan liên tục bởi Phổ, ÁoNga sau đó đã khiến Ba Lan vong quốc từ 1795.Từ 1795-1918, Ba Lan không tồn tại, mặc dù các phong trào phản kháng tự do Ba Lan liên tục tồn tại. Sau khi cuộc nổi dậy tháng Giêng năm 1863 kết thúc với sự đàn áp đẫm máu của Nga, những người Ba Lan quyết định bảo vệ nguồn gốc bằng giáo dục, ngôn ngữ và các "hoạt động sơn dầu" trong kinh tế-xã hội. Thế nhưng, chỉ sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất khép lại, giấc mơ về một nước Ba Lan độc lập mới hồi sinh, do sự suy tàn và sụp đổ của cả Đức, Áo và Nga.Nền Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan, thành lập năm 1918, độc lập cho tới năm 1939 khi cả Đức Quốc xãLiên Xô cùng nhau xâm lược Ba Lan. Hàng triệu người Ba Lan thiệt mạng trong thời kỳ Đức chiếm đóng Ba Lan từ 1939-45 khi Đức coi người Ba Lan, người Di-gan, người Do Thái và các dân tộc Slav khác là "hạ đẳng". Đức còn có trong tay Đại kế hoạch cho phía Đông nhằm tìm cách tận diệt các dân tộc này trong thời gian ngắn. Một chính phủ lưu vong Ba Lan được thành lập và đóng vai trò lớn cho chiến thắng của Ba Lan sau này với các chiến dịch quân sự ở cả mặt trận phía Đôngmặt trận phía Tây. Các chiến dịch Tây tiến của Liên Xô buộc Đức phải rút khỏi Ba Lan, song cũng đồng thời mở đường cho sự trỗi dậy của Nhà nước Cộng sản Ba Lan do Nga hậu thuẫn sau này. Nhà nước này gần như chỉ được coi là nhà nước bù nhìn của Liên Xô.Do kết quả của Thế chiến II, biên giới Ba Lan dịch chuyển dần từ Đông sang Tây, khiến cho Ba Lan mất đi vị trí truyền thống là một nhà nước đa dân tộc trở thành một nhà nước gần như thuần chủng, do các chiến dịch trục xuất, đàn áp và di cư sau chiến tranh.Vào những năm 1980, tổ chức Công đoàn Đoàn kết đã đóng vai trò lớn cho sự dịch chuyển hòa bình từ nhà nước Cộng sản thành một quốc gia tư bản thị trường và một nền dân chủ mới. Nó là tiền đề thành công cho sự ra đời của Ba Lan ngày nay, còn được biết tới là Đệ tam Cộng hòa Ba Lan, thành lập năm 1989.