HMS_Lion_(1910)
HMS_Lion_(1910)

HMS_Lion_(1910)

HMS Lion là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).[3] Chúng được cải tiến đáng kể so với những chiếc trong lớp Indefatigable dẫn trước về tốc độ, vỏ giáp và vũ khí. Lớp Lion nhanh hơn 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h; 2,3 mph), thay đổi cỡ nòng dàn pháo chính từ 12 inch (305 mm) lên 13,5 inch (343 mm) với cùng số khẩu pháo, và có đai giáp chính dày đến 9 inch (229 mm) thay vì 6 inch (152 mm) như của lớp Indefatigable. Nó là nhằm đối phó với những tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đức, lớp Moltke, vốn lớn hơn nhiều và mạnh mẽ hơn những tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Anh, lớp Invincible.Lion đã phục vụ như là soái hạm của lực lượng tàu chiến-tuần dương thuộc Hạm đội Grand Anh Quốc trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trừ những giai đoạn nó được sửa chữa hay tái trang bị.[4] Nó đã đánh chìm tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Köln trong trận Heligoland Bight, và đã hoạt động như là soái hạm của Phó Đô đốc David Beatty trong các trận Dogger BankJutland. Nó bị hư hại nặng trong trận Heligoland Bight đến mức phải được chiếc Indomitable kéo quay trở về cảng; việc sửa chữa đã kéo dài hơn hai tháng. Còn trong trận Jutland, nó chịu đựng một đám cháy thuốc phóng nghiêm trọng đến mức có thể đã phá hủy toàn bộ con tàu, nếu như không có hành động kịp thời của Thiếu tá Francis Harvey, chỉ huy tháp pháo, người được truy tặng huân chương Chữ thập Victoria do đã ra lệnh làm ngập nước hầm đạn. Tuy nhiên, đám cháy đã phá hủy một tháp pháo, buộc phải tháo dỡ và tái cấu trúc khi con tàu được sửa chữa trong nhiều tháng sau đó.Nó trải qua phần còn lại của cuộc chiến tuần tra tại Bắc Hải mà không gặp sự kiện gì, mặc dù đã hỗ trợ từ xa trong Trận Heligoland Bight thứ hai vào năm 1917. Đến năm 1920 Lion được đưa về lực lượng dự bị, rồi được bán để tháo dỡ vào năm 1924 theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington.