Flavius Valerius Aurelius Constantinus[3] (sinh vào ngày
27 tháng 2 khoảng năm
280[2] – mất ngày
22 tháng 5 năm
337), thường được biết đến là
Constantinus I,
Constantinus Đại Đế hay
Thánh Constantinus (đối với các tín hữu
Chính thống giáo Đông phương), là
hoàng đế La Mã từ năm 306 đến khi mất. Constantinus I là vua La Mã đầu tiên cải đạo sang Ki-tô giáo và là người đã ban bố
Sắc lệnh Milano chấm dứt thảm sát tín đồ Ki-tô giáo trong toàn đế quốcConstantinus I là con của vua
Constantius Chlorus, đã lên kế vị tại
York (nước
Anh ngày nay) sau khi phụ hoàng chết năm 306.
[4] Ông là nhà lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử phương Tây thực hiện chính sách tự do tôn giáo; nhưng trên thực tế, Constantinus không phải là một tín đồ Kitô giáo và sử dụng hình ảnh của Chúa trong việc đánh bại các phe đối lập trong nước và củng cố quyền lực của mình.
[5] Lịch phụng vụ
nghi lễ Byzantium, được Giáo hội
Chính thống giáo Đông phương và các giáo hội
Công giáo Đông phương tuân giữ, liệt kê cả Constantinus I và mẹ của ông là
Helena là hai vị Thánh. Mặc dù không được kể vào danh sách các vị Thánh của Giáo hội
Công giáo Latinh (Tây phương) nhưng Constantinus I vẫn được họ kính trọng với danh hiệu "Đại Đế" vì những đóng góp của ông cho Kitô giáo. Nhiều giáo dân Ki-tô coi Constantinus I cùng với
Chúa Giêsu và
Thánh Phaolô là 3 nhân vật quan trọng nhất trong quá trình thành lập và phát triển của giáo hội Ki-tô giáo.
[6]Về đối ngoại, triều đại Constantinus chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh giữa La Mã với các man tộc phía bắc. Constantinus đã đánh bại các bộ tộc
Frank,
Sarmatia và
Goth và ép nhiều người thuộc các sắc dân này gia nhập quân đội La Mã.
[7] Năm
324, Constantinus I tuyên bố đổi tên thành phố
Byzantium thành Tân La Mã (Nova Roma) và vào
11 tháng 5 năm
330 ông chính thức dời đô về Nova Roma.
[6] Sau khi Constantinus chết năm 337, chính phủ La Mã đã đổi tên thủ đô mới thành
Constantinopolis, có nghĩa là Thành phố của Constantinus. Thành Constantinopolis vẫn là thủ đô của
Đế quốc Đông La Mã trên hơn một ngàn năm, chỉ bị ngắt quãng tạm thời bởi sự đốt phá và chiếm đóng của quân
Thập tự chinh lần thứ tư năm 1204, cho đến khi rơi vào
người Thổ Nhĩ Kỳ năm 1453. Mặc dù là một hoàng đế có công tích lừng lẫy, Constantinus đã bị nhiều người thời hậu cổ đại và cận đại (trong đó có cả cháu ông là vua
Julianus sau này) phê phán như một hôn quân bạo chúa, đã gây nhiều tai họa đối với thần dân và ích kỷ chỉ theo đuổi lợi ích riêng của mình.
[8]