Người Sarmatia,
người Sarmatae hay
người Sauromatae (
tiếng Iran cổ Sarumatah 'người bắn cung'
[1]) là dân tộc có nguồn gốc từ
Thổ Nhĩ Kỳ.
[2][3][4][5][6][7] Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ đã di cư từ
Trung Á tới khu vực
dãy núi Ural vào khoảng thế kỷ 5 TCN và cuối cùng định cư tại vùng xa nhất về phía nam thuộc châu Âu của
Nga,
Ukraina và miền đông
Balkan.
Pliny Già[8] đã viết rằng tên gọi trong tiếng Latinh Sarmatae là đồng nhất với từ trong tiếng Hy Lạp Sauromatae. Khi trải rộng nhất như đã được thuật lại, các bộ lạc này sinh sống từ khu vực
sông Vistula tới cửa sông
Danub và về phía đông tới sông
Volga, và từ lãnh thổ huyền bí của
người Hyperborea ở phía bắc, kéo dài về phía nam tới bờ
biển Đen (Hắc Hải) và
biển Caspi, bao gồm cả khu vực nằm giữa chúng và xa tới vùng
dãy núi Kavkaz[9]. Số lượng nhiều và đa dạng nhất các ngôi mộ cũng như các đồ tạo tác Sarmatia có ý nghĩa nhất được tìm thấy tại
Krasnodar krai của
Nga.Tên gọi cũ của
Paraćin (Paratjin) ở
Serbia là
Sarmatae.Có lẽ không phải ngẫu nhiên là ranh giới của cái gọi là
đường đồng ngữ Centum-Satem trong
ngữ hệ Ấn-Âu dường như là chia tách tại biên giới phía châu Âu của người Sarmatia.Vào khoảng năm 100 TCN, vùng đất của người Sarmatia trải dài từ
biển Barents hoặc
biển Baltic ("Oceanus Sarmaticus") qua vùng các sông nhánh của sông Vistula, tới
dãy núi Carpath và cửa sông Danub, sau đó về phía đông dọc theo vùng bờ biển phía bắc của biển Đen, ngang qua vùng
Kavkaz tới biển Caspi và quay trở lại phía bắc dọc theo sông Volga tới
vòng Bắc cực.Người Sarmatia đã phát triển thịnh vượng từ thời của
Herodotus và liên minh phần nào với
người Hung khi họ đến đây trong
thế kỷ 4.Một trào lưu niềm tin phổ biến (
chủ nghĩa Sarmatia) trong
Liên bang Ba Lan-Litva trong giai đoạn từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19, cho rằng đẳng cấp quý tộc là hậu duệ trực tiếp của người Sarmatia. Tuy nhiên không có chứng cứ cụ thể nào hỗ trợ cho tuyên bố như vậy.