•
Kim •
Tống (
trận Tương Dương •
trận Nhai Môn) •
Đại LýTrung Á (
Tây Liêu •
Khwarezmia) •
Ấn Độ •
Volga Bulgariachâu Âu (
Rus' •
Ba Lan •
Hungary •
Dzurdzuketia •
Bulgaria) •
Cao Ly •
Ngoại Kavkaz •
Tây Tạng •
Tiểu Á •
Syria •
Đại Việt (
1258 •
1285 •
1287-1288 •
trận Bạch Đằng)
Trận Tương Dương (
giản thể: 襄樊之战;
phồn thể: 襄陽之戰;
Hán-Việt: Tương Dương chi chiến) hay còn gọi là
trận Tương Phàn (
giản thể: 襄樊之战;
phồn thể: 襄樊之戰;
Hán-Việt: Tương Phàn chi chiến) là một trận chiến then chốt giữa quân Nguyên và quân Nam Tống từ năm 1267 đến năm 1273. Sau trận chiến, quân Nguyên thắng trận đã tiến sâu vào lãnh thổ trung tâm của Nam Tống. Trước đó 30 năm, Nam Tống đã cố gắng chống trả lại rất nhiều cuộc tấn công lớn của Đế quốc Mông Cổ. Vị trí chiến lược của thành Tương Dương nằm ở chỗ nó là nơi án ngữ dòng
Hán Thủy. Một khi quân Nguyên chiếm được Tương Dương, họ có thể di chuyển bằng thuyền xuôi dòng Hán Thủy để tiến vào
Trường Giang. Sau trận Tương Dương, Nam Tống đã không còn một rào cản tự nhiên nào để bảo vệ họ trước quân Nguyên và Nam Tống đã sụp đổ sau đó chỉ vài năm. Trận chiến cuối cùng là
hải chiến Nhai Môn ngắn ngủi đã diễn ra vào năm 1279. Vì vậy, trận Tương Dương được đánh giá là mang tính quyết định.Trận này bao gồm các cuộc đụng độ nhỏ, cuộc tấn công trên bộ, và cuộc bao vây hai thành là Phàn Thành và Tương Dương ở
tỉnh Hồ Bắc ngày nay.
Lã Văn Hoán, tướng trấn thủ của Nam Tống, đã đầu hàng
Hốt Tất Liệt vào năm 1273. Việc sử dụng kỵ binh Mông Cổ truyền thống bị giới hạn do địa hình nhiều rừng và nhiều tiền đồn quân sự của Nam Tống. Các loại
súng cầm tay và
súng thần công Trung Quốc cũng được người Mông Cổ tận dụng trong cuộc bao vây Phàn Thành sau khi chiếm được các tiền đồn và đánh bại quân Nam Tống từ
Tứ Xuyên và
Nhạc Châu, các lực lượng này đã phá vỡ được vòng vây nhưng cuối cùng cũng bị tiêu diệt. Đặc biệt, quân Mông Cổ đã sử dụng rất hiệu quả các máy bắn đá trọng lực, gọi là
Hồi hồi pháo (回回炮) hay
Tây Vực pháo (西域炮) trong khi người Tống trước đó chỉ biết đến các máy bắn đá cổ xưa phải kéo bằng tay.