Xem thêm
Làng là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức
xã hội quan trọng của
nông thôn ở
Việt Nam.Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ cư cổ truyền lâu đời ở nông thôn người Việt và là nhân tố cơ sở cho hệ thống nhà nước quân chủ tại Việt Nam. Từ thời
Hùng Vương, làng được gọi là
chạ. Đơn vị này có thể coi tương đương với
sóc của người Khơme,
bản (của các dân tộc thiểu số phía Bắc),
buôn (của người Ê Đê), làng (của các tộc người bản địa tỉnh Kon Tum và Gia Lai). Làng của những người làm nghề chài lưới được gọi là
vạn hay
vạn chài.Làng truyền thống điển hình thời trung và cận đại là một tập hợp những người có thể có cùng huyết thống, cùng phương kế sinh nhai trên một vùng nhất định. Làng ̣được xem có tính
tự trị, khép kín, độc lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn nên mới có câu "Hương đảng, tiểu triều đình". Năm
1428 vua
Lê Thái Tổ phân chia lãnh thổ thành các đơn vị gọi là tiểu xã, trung xã và đại xã. Thời nhà Lê đánh dấu việc nhà nước tăng cường kiểm soát làng xã. Viên quan cai trị làng lúc đó gọi là "
xã quan". Năm
1467 thì bỏ "xã quan", thay bằng "xã trưởng."
[1] Viên chức này không còn do triều đình bổ nhiệm nữa mà là do dân làng tuyển cử. Từ đó trở đi triều đình chỉ kiểm soát từ cấp
huyện trở lên còn xã được coi như tự trị. Chức xã trưởng đến triều
Minh Mệnh nhà Nguyễn thì đổi là "lý trưởng".Trước đây, trên làng là
xã,
huyện,
châu,
phủ,
lộ,
đạo; dưới làng là thôn, xóm, ấp... tùy theo từng thời kỳ. Ngày nay, tổ chức trên làng là
xã,
huyện,
tỉnh,
quốc gia; tổ chức dưới làng có
xóm.