Tọa độ:
49°27.2603′B 11°02.9103′Đ / 49,4543383°B 11,048505°Đ / 49.4543383; 11.0485050Phiên tòa Nürnberg (
tiếng Đức: Nürnberger Prozesse) là các
phiên xét xử quân sự quân Đồng Minh mở ở
Nürnberg, Đức theo
luật quốc tế và
luật chiến tranh sau
Thế chiến thứ hai, nổi tiếng vì truy tố các lãnh đạo chính trị, quân sự, tư pháp và kinh tế của
Đức Quốc Xã đã kế hoạch, tiến hành hoặc tham gia cuộc
Đại tàn sát và những
tội chiến tranh khác; những phán quyết này đánh dấu bước ngoặt giữa luật quốc tế cổ điển và đương đại.Phiên tòa đầu tiên và nổi tiếng nhất là của những tội phạm chiến tranh chính trước Tòa án Quân sự Quốc tế,
Norman Birkett gọi "phiên tòa lớn nhất trong lịch sử," một trong các thẩm phán Anh có mặt trong suốt.
[1] Từ ngày 20 tháng 11 năm 1945 đến ngày 1 tháng 10 năm 1946,
[2] Tòa được giao nhiệm vụ xét xử 24 trong các lãnh đạo chính trị, quân sự quan trọng nhất của Đế chế thứ ba, bị tố
mưu chiến, phạm tội
tội ác chống lại hòa bình,
tội ác chiến tranh cũng như
tội ác chống lại loài người.
Adolf Hitler,
Wilhelm Burgdorf,
Hans Krebs và
Joseph Goebbels đều đã tự tử trong mùa xuân năm 1945 để tránh bị bắt giữ.
Heinrich Himmler bị bắt và tự tử một ngày sau khi bị bắt bởi quân Anh.
[3] Krebs và Burgdorf tự sát hai ngày sau
Hitler ở
cùng nơi.
[4] Reinhard Heydrich bị
ám sát bởi đảng phái Séc năm 1942.
Josef Terboven tự sát bằng thuốc nổ ở Na Uy năm 1945.
Adolf Eichmann chạy trốn đến
Argentina để tránh bị bắt giữ, nhưng bị bắt giữ bởi dịch vụ tình báo của Israel (
Mossad) và treo cổ năm 1962.
Miklós Horthy là nhân chứng trong
phiên tòa Bộ trưởng diễn ra ở Nürnberg năm 1948.Phán quyết cuối cùng của tòa án bao gồm án tử hình đối với mười hai bị cáo:
Martin Bormann (vắng mặt),
Hans Frank,
Wilhelm Frick,
Hermann Göring (tự tử trước khi thi hành bản án),
Alfred Jodl,
Ernst Kaltenbrunner,
Wilhelm Keitel,
Joachim von Ribbentrop,
Alfred Rosenberg,
Fritz Sauckel,
Arthur Seyss-Inquart và
Julius Streicher. Bảy bị cáo nhận án tù từ mười năm đến tù chung thân:
Karl Dönitz,
Walther Funk,
Rudolf Hess,
Konstantin von Neurath,
Erich Raeder,
Baldur von Schirach và
Albert Speer. Ba bị cáo được tha bổng là
Hans Fritzsche,
Franz von Papen và
Hjalmar Schacht. Hai bị cáo còn lại không được tuyên án,
Robert Ley tự tử trước khi phiên tòa bắt đầu,
Gustav Krupp không được xét xử vì lí do sức khỏe.Bài này chủ yếu nói về phiên tòa đầu tiên, được triệu tập bởi IMT. Những phiên tòa sau đó được triệu tập bởi
Tòa án Quân sự Nürnberg (NMT) do Hòa Kỳ tổ chức, bao gồm
phiên tòa Bác sĩ và
phiên tòa Thẩm phán. Tương tự như Nürnberg, Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông được lập ra để xét xử những tội ác trên mặt trận Thái Bình Dương.Việc phân loại các tội danh và sự hình thành của tòa án thể hiện một tiến bộ pháp lý mà sau này được dùng bởi
Liên Hiệp Quốc để phát triển một bộ luật quốc tế cụ thể cho các vấn đề
tội ác chiến tranh,
tội ác chống lại loài người,
chiến tranh xâm lược, cũng như sự thành lập của
Tòa án Hình sự Quốc tế. Bản cáo trạng Nürnberg cũng lần đầu tiên đề cập đến nạn diệt chủng trong pháp luật quốc tế (Điều ba, tội ác chiến tranh: "sự tiêu diệt các nhóm chủng tộc và dân tộc, chống lại quần thể nhân dân của một số khu vực bị chiếm đóng nhằm tiêu diện chủng tộc và tầng lớp và các nhóm quốc gia, chủng tộc hoặc tôn giáo nhất định, cụ thể là người Do Thái, người Ba Lan, người Di-gan và những nhóm khác.")
[5]