Tiếng Anh cổ
Tiếng Anh cổ (Ænglisc, Anglisc, Englisc) hay
tiếng Anglo-Saxon[2] là dạng cổ nhất của
tiếng Anh, từng được nói tại
Anh, nam và đông
Scotland vào thời sơ kỳ
Trung Cổ. Nó được mang đến
đảo Anh bởi
người Anglo-Saxon có lẽ vào giữa thế kỷ 5, và những tác phẩm
văn học tiếng Anh cổ đầu tiên có niên đại vào giữa thế kỷ 7. Sau
cuộc xâm lược của người Norman năm 1066, tiếng Anh bị thay thế, trong một thời gian, như ngôn ngữ của giới thượng lưu bởi
tiếng Anglo-Norman, một
ngôn ngữ gần gũi với tiếng Pháp. Trong khi đó, tiếng Anh tiếp tục phát triển thành dạng tiếp theo, gọi là
tiếng Anh trung đại.Tiếng Anh cổ phát triển từ một tập hợp các phương ngữ
Anglo-Frisia hay
German biển Bắc từng được nói bởi các
tộc người German thường gọi là
người Angle,
người Saxon, và
người Jute. Do
người Anglo-Saxon dần thống trị Anh, ngôn ngữ của họ cũng dần thay thế các ngôn ngữ của
Anh thuộc La Mã:
tiếng Britton chung (một
ngôn ngữ Celt, tiền thân của
tiếng Wales), và
tiếng Latin (được mang đến bởi
người La Mã). Tiếng Anh cổ có bốn phương ngữ chính, tương ứng với bốn
vương quốc Anglo-Saxon:
Mercia,
Northumbria,
Kent và
Tây Saxon. Phương ngữ Tây Saxon là cơ sở cho dạng chuẩn văn học của tiếng Anh cổ thời kỳ sau,
[3] dù các dạng chính của tiếng Anh trung đại và
hiện đại phát triển chủ yếu từ phương ngữ Mercia. Giọng nói tại phần đông và
bắc Anh chịu ảnh hưởng nặng từ
tiếng Bắc Âu cổ do
sự cai trị của người Scandinavia bắt đầu từ thế kỷ thứ 9.Dưới đây là văn bản
Kinh Lạy Cha trong phương ngữ văn học West Saxon đã chuẩn hóa, với dấu
macron để biểu thị nguyên âm dài: