Thị lang (侍郎, Vice Minister) là chức quan đứng thứ ngay sau Thượng thư (thời kỳ trước triều
Nguyễn, khi đó tương đương với Thứ trưởng ngày nay); sang thời Nguyễn chức này đứng ngay sau Tham tri một bộ.Nguyên chức Thị lang (侍郎, Attendant Gentleman) là một chức
lang được đặt từ thời
Tần Trung Quốc giữ việc thị vệ trong cung đình. Thời
Đông Hán, chức Thị lang được đổi khi triều đình chia 36 viên Thị lang làm thuộc quan của
Thượng thư. Bắt đầu từ thời
Tùy, Thị lang được định là chức phó của
Thượng thư, tức là chức quan cao thứ 2 trong một bộ. Thời
Đường, Thị lang bắt đầu được chia làm Tả, Hữu Thị lang, trật Chánh tam phẩm. Thời
Tống, Thị lang không chia làm Tả, Hữu mà chỉ dùng một chức Thị lang, trật Tòng tam phẩm. Thời
Minh và đầu
Thanh, trật Chánh tam phẩm, bắt đầu từ năm 1730, trật Tòng nhị phẩm, năm 1749, trật Chánh nhị phẩm.
[1]Tại
Việt Nam, thời
Hồng Đức, đặt Tả, Hữu Thị lang là quan phó của các
Thượng thư tại
Lục bộ, trật Tòng tam phẩm.Thời
Nguyễn, Thị lang là chức trong một bộ đứng đầu các viện hoặc phủ như
Nội vụ phủ hoặc
Vũ khố. Chức Thị lang bao gồm hai quan Tả, Hữu Thị lang. Nhưng không như tại
Trung Quốc, Thị lang thời
Nguyễn không còn là quan phó
Thượng thư vì thời này, phó quan
Thượng thư là các quan Tả Hữu
Tham tri. Việc này đồng nghĩa với chức Thị lang là chức quan cao thứ 3 trong một bộ, trên
Lang trung.
[2]Ngoài ra, quan Thị lang có thể là quan trong cùng một bộ được thăng hoặc có thể là quan được bổ nhiệm từ các bộ khác. Ví dụ như
Doãn Uẩn được bổ chức Thị lang trong các bộ khác nhau, từ chức Hữu Thị lang
bộ Lại, rồi chuyển sang chức Hữu Thị lang
bộ Hình, và sau lại chuyển sang chức Tả Thị lang
bộ Hộ trong cùng năm 1835.