list error: <br /> list (
help)
10 × pháo
SK 30,5 cm (12,0 in) L/50 (5×2);
14 × pháo
SK 15 cm (5,9 in) L/45;
12 × pháo 8,8 cm (3,5 in);
list error: <br /> list (
help)
đai giáp: 350 mm (14 in)
[1];
tháp pháo: 300 mm (12 in)
[1];
khẩu đội: 170 mm (6,7 in);
SMS Prinzregent Luitpold, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính
Luitpold của
Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp
thiết giáp hạm Kaiser của
Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn
Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Prinzregent Luitpold được đặt lườn vào ngày
tháng 10 năm
1910 tại xưởng tàu của hãng
Germaniawerft ở
Kiel, hạ thủy vào ngày
17 tháng 2 năm
1912 và đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày
19 tháng 8 năm
1913. Con tàu trang bị mười khẩu pháo 30,5 xentimét (12,0 in) bố trí trên năm tháp pháo nòng đôi, và đạt tốc độ tối đa 21,7 hải lý trên giờ (40,2 km/h; 25,0 mph). Prinzregent Luitpold được phân về Hải đội Chiến trận 3, và sau đó là Hải đội Chiến trận 4, của
Hạm đội Biển khơi Đức trong hầu hết thời gian của Thế Chiến ICùng với các tàu chị em cùng lớp
Kaiser,
Friedrich der Grosse,
Kaiserin và
König Albert, Prinzregent Luitpold đã tham gia hầu hết các hoạt động hạm đội chủ yếu trong Thế Chiến I, bao gồm
trận Jutland vào ngày
31 tháng 5-
1 tháng 6 năm
1916. Nó cũng hiện diện trong
Chiến dịch Albion, cuộc tấn công đổ bộ chiếm các cứ điểm do
Nga chiếm giữ tại
vịnh Riga trong
biển Baltic vào cuối năm
1917.Sau khi Đức thua trận trong chiến tranh buộc phải ký
Thỏa thuận Ngừng bắn vào
tháng 11 năm
1918, Prinzregent Luitpold cùng với hầu hết tàu chiến chủ lực của Hạm đội Biển khơi bị lưu giữ tại căn cứ Hải quân Anh ở
Scapa Flow. Các con tàu bị giải giới, thủy thủ đoàn được rút gọn ở vai trò bảo trì trong khi quá trình thương lượng hòa bình diễn ra để đưa đến
Hiệp ước Versailles. Vào ngày
21 tháng 6 năm
1919, tư lệnh của hạm đội bị cầm giữ, Chuẩn Đô đốc
Ludwig von Reuter ra lệnh
đánh đắm hạm đội nhằm đảm bảo người Anh không thể chiếm các con tàu. Xác tàu đắm của Prinzregent Luitpold cuối cùng được cho nổi lên vào
tháng 7 năm
1931 và tháo dỡ vào năm
1933.