list error: <br /> list (
help)
10 × pháo
SK 30,5 cm (12,0 in) L/50 (5×2);
14 × pháo
SK 15 cm (5,9 in) L/45;
12 × pháo 8,8 cm (3,5 in);
list error: <br /> list (
help)
đai giáp: 350 mm (14 in)
[1];
tháp pháo: 300 mm (12 in)
[1];
khẩu đội: 170 mm (6,7 in);
SMS Kaiserin (Nữ hoàng)
[Ghi chú 2] là chiếc thứ ba trong lớp
thiết giáp hạm Kaiser của
Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn
Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Kaiserin được đặt lườn vào ngày
26 tháng 1 năm
1910 tại xưởng tàu của hãng Howaldtswerke ở
Kiel, được hạ thủy vào tháng 11 năm 1911 và được đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày
15 tháng 5 năm
1913. Con tàu được trang bị mười khẩu pháo 30,5 xentimét (12,0 in) được bố trí trên năm tháp pháo nòng đôi, và đạt được tốc độ tối đa 22,1 hải lý trên giờ (40,9 km/h; 25,4 mph). Kaiserin được phân về Hải đội Chiến trận 3, và sau đó là Hải đội Chiến trận 4, của Hạm đội Biển khơi Đức trong hầu hết thời gian của Thế Chiến ICùng với các tàu chị em cùng lớp
Kaiser,
Friedrich der Grosse,
König Albert và
Prinzregent Luitpold, Kaiserin đã tham gia hầu hết các hoạt động hạm đội chủ yếu trong Thế Chiến I tại
biển Bắc, bao gồm
trận Jutland vào ngày 31 tháng 5 - 1 tháng 6 năm 1916. Nó cũng hiện diện trong Chiến dịch Albion, cuộc tấn công đổ bộ chiếm các cứ điểm do
Nga chiếm giữ tại
vịnh Riga trong
biển Baltic vào tháng 9 và tháng 10 năm 1917, và trong Trận Heligoland Bight thứ hai vào tháng 11 năm 1917.Sau khi Đức thua trận trong chiến tranh buộc phải ký Thỏa thuận Ngừng bắn vào tháng 11 năm 1918, Kaiserin cùng với hầu hết Hạm đội Biển khơi bị lưu giữ tại căn cứ Hải quân Anh ở Scapa Flow. Các con tàu bị giải giới, thủy thủ đoàn được rút gọn ở vai trò bảo trì trong khi quá trình thương lượng hòa bình diễn ra để đưa đến
Hòa ước Versailles. Vào ngày
21 tháng 6 năm
1919, tư lệnh của hạm đội bị cầm giữ, Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter, ra lệnh đánh đắm hạm đội nhằm đảm bảo người Anh không thể chiếm các con tàu. Xác tàu đắm của Kaiserin cuối cùng được cho nổi lên vào tháng 5 năm 1936 và được tháo dỡ sau đó.