Ngô Thế Vinh (
chữ Hán: 吳世荣,
1802 -
1856, hiệu
Trúc Đường,
Khúc Giang và
Dương Đình) là một chính trị gia và và nhà thơ đời vua Minh Mạng và Tự Đức.Ông quê tại xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định. Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống thi thư, là dòng dõi khai quốc công thần Chương Khánh Công
Ngô Từ của
nhà Lê sơ, và là em ruột của Ngô Đình Thái (soạn giả sách Nam Phong giải trào).Ông đỗ
tiến sĩ năm
Kỷ Sửu (
Minh Mạng thứ 10,
1829), làm quan đến chức
lang trung bộ Lễ. Sau khi làm giám khảo trường
thi Hương ở
Hà Nội, do duyệt quyển không kỹ, nên bị cách chức, ông về quê dạy học và phụng dưỡng mẹ già. Học trò nhiều người thành đạt. Vua
Tự Đức thường sai Trung sứ đến nhà lấy thơ văn trước tác của ông để dâng vua xem. Sau vua lại gia ơn phục hồi học vị tiến sĩ.Có sách chép, ông soạn tới 72 cuốn. Đồng biên soạn cuốn chuẩn định Hương Hội thi pháp. Ông đề tựa cuốn Ức Trai di tập do
Dương Bá Cung soạn. Tác phẩm chủ yếu là sách giáo khoa, có tập Dương Đình thi văn tập và Trúc Đường phú tập. Ngoài ra, Ngô Thế Vinh còn biên soạn sách triết học như Trúc Đường chu dịch tùy bút, sách sử học như Tống sử học, sách về đo đạc như Khảo xích đạo bộ pháp.Qua những tác phẩm còn lại đến ngày nay, có thể nói ông là bậc tri thức uyên bác về nhiều lãnh vực.Ông có để lại bản dịch bài thơ "Chức cẩm hồi văn" của Tô Huệ (
Trung Quốc), (gồm 40 câu thơ thất ngôn = 280 chữ) ra thơ song thất lục bát (cũng 40 câu = 280 chữ) rất hay, đến nay chưa có bản dịch nào vượt lên trên được.Trong số những hậu duệ của Ngô Thế Vinh có
Ngô Lập Chi, đậu
cử nhân dưới triều
nhà Nguyễn, là dịch giả cuốn
Phủ biên tạp lục của
Lê Quý Đôn.