1865–1913 Lịch_sử_Thượng_viện_Hoa_Kỳ

Những nhà cải cách như Joseph Keppler đã mô tả Thượng viện được kiểm soát bởi những túi tiền khổng lồ đại diện cho các quỹ tài chính và độc quyền.

Trong thời kỳ hậu Nội chiến, Thượng viện giải quyết các vấn đề lớn của quốc gia như Tái thiết và các chính sách tiền tệ. Với các đảng phái chính trị mạnh của Hệ thống Đảng thứ ba, các chính trị gia hàng đầu đã kiểm soát đủ sự ủng hộ trong các cơ quan lập pháp của bang để được bầu làm Thượng nghị sĩ. Trong thời đại công nghiệp phát triển vượt bậc, nhiều doanh nhân có uy tín đã được bầu vào Thượng viện.

Từ năm 1890–1910, một số Đảng viên Cộng hòa đã kiểm soát Thượng viện, dẫn đầu bởi Nelson Aldrich (Rhode Island), Orville H. Platt (Connecticut), John Coit Spooner (Wisconsin), William Boyd Allison (Iowa), cùng với lãnh đạo đảng quốc gia Mark Hanna (Ohio). Aldrich là người bảo hộ và giới thiệu của tất cả các luật thuế quan vào đầu thế kỷ 20, bao gồm cả Hệ thống Dự trữ Liên bang. Trong số các Đảng viên Dân chủ, Arthur Pue Gorman từ Maryland nổi bật nhất.

Từ năm 1871 đến năm 1898, Thượng viện không thông qua bất kỳ hiệp ước nào. Thượng viện đã xem xét một loạt các thỏa thuận thương mại có lợi cho Hoa Kỳ như các thỏa thuận nhằm sáp nhập Cộng hòa Dominica và Quần đảo Virgins Đan Mạch, đánh bại một thỏa thuận phân xử với Anh, và buộc Panama phải quay lại đàm phán về hiệp ước xây dựng kênh đào cùng tên. Cuối cùng, vào năm 1898, Thượng viện từ chối phê chuẩn hiệp ước kết thúc Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Thượng_viện_Hoa_Kỳ http://uspolitics.about.com/od/usgovernment/l/bl_p... http://bioguide.congress.gov/scripts/biodisplay.pl... http://hdl.loc.gov/loc.uscongress/legislation.100h... http://hdl.loc.gov/loc.uscongress/legislation.108h... //www.worldcat.org/oclc/173005222 //www.worldcat.org/oclc/18442225/editions //www.worldcat.org/oclc/246187030/editions //www.worldcat.org/oclc/256528124/editions //www.worldcat.org/oclc/34512820 //www.worldcat.org/oclc/772374229/editions