Louis Pasteur (
/ˈluːi pæˈstɜːr/, tiếng Pháp:
[lwi pastœʁ];
27 tháng 12 năm
1822 -
28 tháng 9 năm
1895) là một nhà
sinh học, nhà
vi sinh vật học, nhà
hoá học, một tín đồ
Công giáo người Pháp, với những phát hiện về các nguyên tắc của
tiêm chủng,
lên men vi sinh và
thanh trùng. Ông thường được biết đến qua những nghiên cứu quan trọng về các nguyên nhân và biện pháp chữa bệnh, và những khám phá đó của ông đã cứu sống vô số người kể từ đó. Ông đã đề ra các biện pháp thanh trùng để làm giảm tỷ lệ
tử vong sau khi sinh đẻ ở các sản phụ, tạo ra loại
vắc-xin đầu tiên cho
bệnh dại và
bệnh than. Những nghiên cứu của ông góp phần hỗ trợ trực tiếp cho
Lý thuyết mầm bệnh và các ứng dụng trong
Y học lâm sàng. Ông cũng nổi tiếng trong việc phát minh ra kỹ thuật bảo quản
sữa và
rượu để ngăn chặn vi khuẩn có hại xâm nhập, một quá trình mà ngày nay được gọi là
thanh trùng. Ông được xem là một trong 3 người thiết lập nên lĩnh vực
Vi sinh vật học, cùng với
Ferdinand Cohn và
Robert Koch, và được gọi là "cha đẻ của Vi sinh vật học".
[2][3][4]Pasteur có vai trò lớn trong việc bác bỏ
Thuyết tự sinh, vốn in sâu trong tư tưởng các
nhà khoa học trước đó. Ông đã thí nghiệm cho thấy rằng nếu không có sự nhiễm khuẩn từ bên ngoài,
vi sinh vật không thể tự xuất hiện. Ông chứng minh rằng trong bình tiệt trùng được đóng kín thì sẽ không có
vi khuẩn, nhưng khi mở thì vi khuẩn lại xuất hiện, chứng tỏ vi khuẩn đã xâm nhập vào bình qua đường không khí. Thí nghiệm này giúp ông giành giải
Alhumbert.Tuy Pasteur không phải là người đầu tiên đề xuất
Lý thuyết mầm bệnh, ông đã phát triển nó và tiến hành các thí nghiệm cho thấy rõ tính đúng đắn của nó và thuyết phục người dân
Châu Âu tin rằng đó là sự thật.Pasteur đồng thời có những khám phá quan trọng trong ngành
Hóa học, đáng chú ý nhất là cơ bản về phân tử đối với tính không đối xứng của một số tinh thể nhất định và
raxemic hóa.Ông là Giám đốc
Viện Pasteur cho đến khi ông
qua đời, và thi thể ông nằm bên dưới viện trong một hầm được theo phong cách khảm Byzantine.
[5]