Liên Xô chiếm Đông Ba Lan (theo quan điểm của Phương Tây, Ba Lan, Đức
[5]) hoặc
Chiến dịch giải phóng miền Tây Ucraina và Belarus,
Chiến dịch thu hồi lãnh thổ Ucraina và Belarus (theo cách gọi tại
Nga,
Ucraina và
Belarus, vì miền Đông Ba Lan khi đó vốn là lãnh thổ của Ucraina và Belarus nhưng bị Ba Lan chiếm vào năm 1921) bắt đầu ngày 17 tháng 9 năm 1939, vào lúc 3:00 giờ sáng với sự đổ quân Liên Xô vào Đông Ba Lan. Việc này xảy ra sau khi Liên Xô và Đức Quốc xã ký
Nghị định thư Phụ lục Bí mật thuộc
Hiệp ước Xô-Đức vào ngày 23 tháng 8 năm 1939 và sau cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, theo Phụ lục này thì Đức chấp nhận việc Liên Xô giành lại các lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của Nga vào năm 1921.Trong năm 1939, tổng số lãnh thổ mà Liên Xô giành được (kể cả khu vực được giao cho Litva và sáp nhập vào 1940 thành
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Latvia, là 201.015 km vuông, với một dân số là 13,299 triệu, trong đó có 5,274 triệu người Ba Lan và 1,109 triệu người Do Thái.
[6]Josef Stalin tuyên bố việc tấn công của quân đội Liên Xô vào nước Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan là để bảo vệ
người Ukraina và
người Belarus sống trên lãnh thổ Ba Lan. Hồng quân ít gặp khánh cự vì những đội quân Ba Lan phần lớn đã đầu hàng hoặc rã ngũ, trong khi người dân Ucraina và Belarus tại đây đã hoan nghênh việc Hồng quân đánh đuổi ách chiếm đóng của Ba Lan suốt 18 năm qua.Các cường quốc phương Tây
Vương quốc Anh và
Đệ Tam Cộng hòa Pháp đã tuyên bố sẽ hỗ trợ Ba Lan trong trường hợp nước này bị một cường quốc Âu Châu khác xâm chiếm. Tuy nhiên trong một phụ lục bí mật của bản tuyên bố này, cường quốc đó được định nghĩa là
Đức Quốc xã, cho nên bản tuyên bố này không có hiệu lực với trường hợp Liên Xô tấn công Ba Lan. Các nước này cũng không ra tuyên bố ngoại giao phản đối chiến dịch của Liên Xô.