Tọa độ:
39°12′B 98°32′Đ / 39,2°B 98,533°Đ / 39.200; 98.533Kỳ Liên Sơn (
chữ Hán: 祁连山;
bính âm: Qílián Shān, còn gọi là Nam Sơn 南山 nghĩa là "dãy núi phía nam" khi nhìn từ
hành lang Hà Tây của
Con đường tơ lụa) là phần nằm ngoài ở phía bắc của
dãy núi Côn Lôn, tạo thành ranh giới giữa các tỉnh
Thanh Hải (phía đông bắc) và
Cam Túc (phía tây), dài khoảng 1.000 km, rộng khoảng 200–300 km, độ cao trung bình đạt 4.000 m trên
mực nước biển. Lượng
giáng thủy hàng năm trong khoảng 250–600 mm. Nó là nơi bắt nguồn của
sông Ngạch Tể Nạp (Hắc Hà).Dãy núi này kéo dài từ khoảng 70 km về phía nam
Đôn Hoàng và kéo dài khoảng 800-1.000 km và thấp dần về phía đông nam, tạo thành ranh giới phía tây của
hành lang Cam Túc. Trước đây, người châu Âu gọi dãy núi này là dãy núi Richthofen theo tên của
Ferdinand von Richthofen, một nhà địa lý và khoa học người Đức
[1]Dãy núi được lấy tên theo đỉnh Kỳ Liên Sơn, nằm khoảng 60 km về phía nam
Tửu Tuyền, tại tọa độ
39°12′B 98°32′Đ / 39,2°B 98,533°Đ / 39.200; 98.533, với độ cao tới 5.547 m, là ngọn núi cao nhất trong tỉnh Cam Túc. Nó là đỉnh cao nhất trong dãy núi chính, nhưng có 2 đỉnh cao hơn và xa hơn về phía nam, Cương Tắc Ngô Kết (岗则吾结) hay đỉnh Đoàn Kết (团结) tại tọa độ
38°30′B 97°43′Đ / 38,5°B 97,717°Đ / 38.500; 97.717 với độ cao 5.808 m
[2] và Sài Đạt Mộc Sơn (柴达木山) tại tọa độ
38°2′B 95°19′Đ / 38,033°B 95,317°Đ / 38.033; 95.317 với độ cao 5.759 m
[3].Dãy núi này kéo dài về phía tây như là dãy núi Anhĩ Kim Sơn với đỉnh
A Nhĩ Kim Sơn cao 5.798 m. Về phía đông, nó vượt qua phía bắc
hồ Thanh Hải và
bồn địa Sài Đạt Mộc (Qaidam), kết thúc như là Đại Phản Sơn (大阪山) và Hưng Long Sơn gần
Lan Châu, với đỉnh Miêu Mã Sơn (4.070 m) là phần nằm ngoài phía đông. Các đoạn của
Vạn lý trường thành thời
nhà Minh đi qua các sườn núi phía bắc của nó cũng như phía nam của phần nằm ngoài phương bắc là
Long Châu Sơn (3.616 m).
Sử ký đề cập tới "Kỳ Liên Sơn hay Thiên Sơn" cùng với Đôn Hoàng như là vùng đất của người
Nguyệt Chi. Tuy nhiên, rất có thể là tên gọi trong bộ sử này nói tới dãy núi khác, gọi là
Thiên Sơn, khoảng 1.500 km xa hơn về phía tây, còn Đôn Hoàng là dãy núi được chứng thực như là
Đôn Hoăng (敦薨)
[4] và Kỳ Liên (祁连) được nhận dạng như là cụm từ trong ngôn ngữ
Hung Nô nghĩa là "thiên/trời" (chữ Hán: 天;
bính âm: tiān) theo kiến giải của
Nhan Sư Cổ (顏師古, 581-645), một người chú giải Sử ký sống trong thời kỳ thời
nhà Đường.