list error: <br /> list (
help)
10 × pháo
BL 13,5 in (340 mm) Mk V (5×2);
12 × pháo
BL 6 in (150 mm) Mk VII;
2 × pháo phòng không
QF 3 in (76 mm) 20 cwt;
4 × pháo 3-pounder (47 mm (1,9 in));
5 × súng máy
0,303 in (7,7 mm);
list error: <br /> list (
help)
Đai giáp chính: 8–12 in (200–300 mm) (giữa);
4–6 in (100–150 mm) (hai đầu);
Sàn tàu: 1 in (25 mm) (phía trước);
1,25–2 in (32–51 mm) (sàn trên);
1–2,5 in (25–64 mm) (sàn giữa và sàn dưới);
Tháp pháo: 11 in (280 mm);
Tháp pháo ụ: 6 in (150 mm);
Bệ tháp pháo: 7–10 in (180–250 mm);
Vách ngăn chống ngư lôi: 4–8 in (100–200 mm);
HMS Benbow là một
thiết giáp hạm dreadnought của
Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; là chiếc thứ ba thuộc
lớp thiết giáp hạm Iron Duke, tên của nó được đặt nhằm tôn vinh
Đô đốc John Benbow. Benbow được đặt hàng trong
Dự toán chế tạo hải quân 1911 và được chế tạo tại xưởng tàu của hãng
William Beardmore and Company ở
Glasgow.
[1] Nó được đặt lườn vào ngày
30 tháng 5 năm
1912 và được hạ thủy vào ngày
12 tháng 11 năm
1913.
[2] Nó được đưa ra hoạt động vào
tháng 10 năm
1914, sau khi
Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ.Benbow đã phục vụ trong chiến tranh trong thành phần
Hạm đội Grand, và đã dẫn đầu một hải đội của hạm đội này trong trận hải chiến lớn nhất của cuộc chiến tranh,
trận Jutland, vào năm
1916. Nó trải qua thời gian còn lại của chiến tranh tại vùng biển nhà, nhưng đã được phái đến
Địa Trung Hải sau khi chiến tranh kết thúc, rồi đến
Hắc Hải. Tại đây nó tiến hành một số cuộc bắn phá bờ biển nhằm hỗ trợ cho lực lượng
Bạch vệ trong cuộc
Nội chiến Nga cho đến khi chúng thất bại vào năm
1920. Nó tiếp tục ở lại cùng
Hạm đội Địa Trung Hải cho đến năm
1926, rồi được điều về
Hạm đội Đại Tây Dương. Benbow ngừng hoạt động vào năm
1929, được giải giáp theo những điều khoản của
Hiệp ước Hải quân London năm
1930 và bị bán để tháo dỡ vào năm
1931.