Gneis hay
gơnai hay
đá phiến ma là một loại
đá phổ biến và phân bố rộng trong lớp vỏ Trái Đất, được hình thành bởi các quá trình
biến chất khu vực ở mức cao từ các thành hệ đã tồn tại trước đó mà nguyên thủy chúng là
đá lửa hoặc
đá trầm tích [1].Đá gneis thông thường là loại đá tạo phiến từ trung bình tới thô và chủ yếu là
tái kết tinh nhưng không chứa một lượng lớn
mica,
clorit hay các
khoáng vật dạng phiến dẹt khác. Các loại đá gneis là đá lửa biến chất hoặc tương đương của chúng được gọi là gneis
granit, gneis
diorit v.v. Tuy nhiên, phụ thuộc vào thành phần hóa học của chúng, có thể gọi chúng là gneis
granat, gneis
biotit, gneis
anbit v.v. Octogneis là từ để chỉ gneis có nguồn gốc từ
đá mácma, còn Paragneis là từ để chỉ đá gneis có nguồn gốc từ
đá trầm tích. Tuy nhiên, phân biệt giữa octogneis và paragneis là không dễ. Á gneis (gneissose) là thuật ngữ để chỉ các loại đá có tính chất tương tự như gneis.Gneis tương tự như
đá phiến, ngoại trừ ở chỗ các khoáng vật được sắp xếp thành các dải. Đôi khi rất khó phân biệt gneis và đá phiến do một số loại đá gneis dường như có nhiều mica so với thực tế chúng có. Điều này đặc biệt đúng với các mặt phẳng chia tách giàu mica.Đá gneis hợp thành phần lớn lớp granit-biến chất của lớp vỏ lục địa, lộ rõ tại các
khiên kết tinh (ví dụ
khiên Baltica,
khiên Ukraina,
khiên Canada v.v) và hợp thành nền tảng của các
nền cổ (ví dụ
nền Siberi).Loại đá cổ nhất đã được biết đến hiện nay trong số các loại đá trên Trái Đất là đá gneis xám của khu vực
Acasta, hợp thành nền tảng của
nền cổ Slave thuộc
khiên Canada, với niên đại tới 3,92 tỷ năm. Tuy nhiên, không phải mọi loại đá gneis đều có độ tuổi rất cổ. Người ta đã biết đến loại đá gneis niên đại
Tân sinh mà sự hình thành của nó gắn liền với biến chất nhiệt độ cao (ví dụ trong các lõi granit-biến chất kiểu
Cordillera).