Diorit là một đá macma xâm nhập trung tính có thành phần chính gồm
plagioclase feldspar (khoáng vật đặc trưng là
andesin),
biotit,
hornblend, và/hoặc
pyroxen. Nó có thể có một lượng nhỏ
thạch anh,
microclin và
olivin.
Zircon,
apatit,
sphen,
magnetit,
ilmenit và
sulfua có thể là các khoáng vật phụ.
[1] Nó cũng có thể có màu xám xanh hoặc đen, và thường bề ngoài có màu xanh lục. Các biến thể thiếu hornblend và các khoáng vật màu khác được gọi là leucodiorit. Khi có mặt
olivin và các
augit giàu sắt hơn thì đá được gọi là ferrodiorit, đây là một trạng thái chuyển tiếp từ
gabbro. Khi thạch anh có mặt đáng kể trong đá thì được gọi là diorit-thạch anh (>5% thạch anh) hay
tonalit (>20% thạch anh), và nếu có mặt
orthoclase (feldspar natri) hơn 10% thì đá được gọi là
monzodiorit hay
granodiorit. Diorit có kiến trúc hạt vừa đôi khi ban tinh.Diorit có thể đi cùng với các xâm nhập hoặc là
granit hoặc
gabro, khi xâm nhập qua chúng có thể hòa tan. Diorit được tạo thành từ
tan chảy từng phần của đá
mafic bên trên
đới hút chìm. Nó thường được hình thành trong các
cung núi lửa, và trong các đai tạo núi do va chạm như trong
dãi Andes chúng ở dạng
batholith lớn. Đá phun trào có thành phần tương tự được gọi là
andesit.