Một
nền cổ hay một
craton (trong
tiếng Hy Lạp gọi là κρἀτος/kratos nghĩa là "sức bền") là phần cổ và ổn định của
lớp vỏ lục địa đã tồn tại qua các lần sáp nhập và chia tách các
lục địa và
siêu lục địa trong ít nhất là 500 triệu năm. Một số nền cổ có niên đại trên 2 tỷ năm. Các nền cổ nói chung được tìm thấy trong các phần sâu bên trong của các lục địa và được hợp thành một cách đặc trưng từ lớp vỏ
móng kết tinh chứa các dạng
đá lửa felsic nhẹ, chẳng hạn như
granit. Chúng có lớp vỏ dày và gốc rễ sâu, kéo dài tới tận
lớp phủ Trái Đất phía dưới, tới độ sâu 200 km.Thuật ngữ nền cổ được sử dụng để phân biệt phần bên trong ổn định của lớp vỏ lục địa với những khu vực có tính linh động hơn như các vùng lõm
địa máng, là các dải thẳng của tích lũy trầm tích phải lún hay oằn xuống. Các nền cổ trung tâm rộng lớn của các lục địa có thể gồm có cả các
khiên lẫn các
nền và móng kết tinh. Một khiên là phần của nền cổ trong đó các loại đá móng (thường là
Tiền Cambri) trồi lên một cách rộng khắp tại bề mặt. Ngược lại, nền của một móng bị các lớp trầm tích theo phương ngang hay gần ngang đè lên trên.Từ craton lần đầu tiên được nhà địa chất người
Đức là L. Kober đề xuất năm 1921 như là "kratogen", để nói tới các nền lục địa ổn định, và "orogen" như là thuật ngữ để chỉ
núi hay các
đai kiến tạo sơn. Các tác giả sau này đã lược ngắn lại thuật ngữ này thành kraton và rồi thành craton.