Fletcher_(lớp_tàu_khu_trục)
Fletcher_(lớp_tàu_khu_trục)

Fletcher_(lớp_tàu_khu_trục)

5 × pháo 5 in (130 mm)/38 caliber (5×1);
4 × pháo tự động pháo tự động 1,1 in (28 mm) (1×4);
6–10 × pháo phòng không Bofors 40 mm;
7–10 × pháo phòng không Oerlikon 20 mm;
10 × ống phóng ngư lôi Mark 15 21 in (530 mm) (2×5);
Lớp tàu khu trục Fletcher là một lớp tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp tàu được thiết kế vào năm 1939 do những điểm không hài lòng trên những kiểu soái hạm khu trục thuộc các lớp PorterSomers dẫn trước. Một số chiếc trong lớp đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Triều TiênChiến tranh Việt Nam.[3]Hải quân Hoa Kỳ đã nhập biên chế 175 tàu khu trục lớp Fletcher từ năm 1942 đến năm 1944, nhiều hơn bất kỳ lớp tàu khu trục nào khác, và thiết kế của lớp này nói chung được xem là thành công. Chúng có tốc độ thiết kế 38 hải lý một giờ (70 km/h; 44 mph) và một dàn hỏa lực năm pháo 5 in (130 mm)/38 caliber trên các bệ nòng đơn cùng mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm) trên hai bệ năm nòng trên trục giữa tàu.[4] Các lớp tàu khu trục Allen M. SumnerGearing tiếp theo sau là những cải biến từ lớp Fletcher.Những chiếc Fletcher với tầm hoạt động xa đã tham gia mọi vai trò được đòi hỏi nơi một tàu khu trục: Chiến tranh phòng khôngChiến tranh chống tàu ngầm cũng như các hoạt động mặt biển;[3] chúng có khả năng bao phủ các khoảng cách lớn trong các hoạt động hạm đội tại Thái Bình Dương. Trong thực tế, chúng hầu như phục vụ thuần túy tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, ghi chiến công đánh chìm 29 tàu ngầm Hải quân Đế quốc Nhật Bản.[3] Trong một nỗ lực vượt bậc của ngành đóng tàu, lớp Fletcher được chế tạo tại các xưởng đóng tàu khắp Hoa Kỳ; và sau khi xung đột kết thúc, 11 chiếc đã được bán cho những nước là đối thủ trước đây trong chiến tranh: Tây Đức, ÝNhật Bản, cũng như cho hải quân nhiều nước khác, tiếp tục phục vụ nổi bật trong nhiều năm tiếp theo.Ba chiếc trong lớp đã được bảo tồn như tàu bảo tàng tại Hoa Kỳ, cùng một chiếc khác tại Hy Lạp.