Thực đơn
Elfen_Lied AnimeAnime Elfen Lied, do Mamoru Kanbe làm đạo diễn, sản xuất bởi ARMS và được hai công ty Nhật Bản là GENCO và VAP phân phối, với độ dài 13 tập phim và 25 phút mỗi tập.[2] Từ tập 1 đến tập 11 có nội dung tương tự như tập 1 đến tập 6 manga. Hai tập phim cuối kết thúc khác với manga, do lúc đó bộ truyện vẫn chưa được hoàn tất.
Elfen Lied được phát sóng tại Nhật Bản trên kênh truyền hình kĩ thuật số AT-X từ 25 tháng 7 đến 7 tháng 10 năm 2004. ADV Films, nhà phân phối chính thức tại Hoa Kỳ, đã công bố rằng anime này là «một trong những bộ phim bán chạy nhất» và «đáng chú ý nhất» trong năm 2005.[4][5]
Năm 2005, phát hành thêm một đĩa OVA kéo dài 24 phút có nội dung khoảng giữa hai tập 10 và 11, do đó nó được coi là tập phim 10,5.[3] OVA được xem như là tập phim đặc biệt (特別編, Tokubetsu hen?) thứ 14 khi nó cũng được tổng hợp lại trong phần 7 của DVD phát hành cùng năm mà không qua trình chiếu trên truyền hình.[65] Nội dung đi sâu vào những khía cạnh khác của manga như mối quan hệ giữa Lucy và Nana hoặc về một người bạn lúc nhỏ của Lucy là Aiko, nhưng không ảnh hưởng gì đến tập cuối loạt phim.
Anime cũng được công chiếu tại nhiều quốc gia khác trên các kênh: MCM Belgique (Bỉ)[66], The Anime Network (Canada và Hoa Kỳ)[67], Virgin 17 (Pháp)[68], Propeller TV (Anh)[69], Buzz (Tây Ban Nha)[70], 2x2 (Nga)[71] và Animax (Nam Phi).[72] Ngoài ra còn được phân phối bởi các công ty ADV Films (Đức, Mỹ và Anh), Kaze (Pháp và Hà Lan), Madman Entertainment (Úc) và Entertaintment (Nga).[2]
Bảng sau liệt kê danh sách các tập anime và OVA đã ra mắt, với tựa đề bằng tiếng Anh (do chưa có tên tiếng Việt chính thức), rōmaji và kanji cùng ngày tháng phát hành tại Nhật Bản.[73][74]
# | Tựa đề | Ngày phát hành |
---|---|---|
01 | A Chance Encounter (邂逅, Kaikō?) | 25 tháng 7, 2004 (2004-07-25) |
02 | Annihilation (掃討, Sōtō?) | 1 tháng 8, 2004 (2004-08-01) |
03 | Deep Feelings (胸裡, Kyōri?) | 8 tháng 8, 2004 (2004-08-08) |
04 | Attack (触撃, Shokugeki?) | 15 tháng 8, 2004 (2004-08-15) |
05 | Receipt (落掌, Rakushō?) | 22 tháng 8, 2004 (2004-08-22) |
06 | Innermost Feelings (衷情, Chūjō?) | 29 tháng 8, 2004 (2004-08-29) |
07 | Confrontation (際会, Saika?) | 5 tháng 9, 2004 (2004-09-05) |
08 | The Beginning (嚆矢, Kōshi?) | 12 tháng 9, 2004 (2004-09-12) |
09 | Reminiscence (追憶, Tsuioku?) | 19 tháng 9, 2004 (2004-09-19) |
10 | Infant (嬰児, Eiji?) | 26 tháng 11, 2004 (2004-11-26) |
11 | Complication (錯綜, Sakusō?) | 3 tháng 10, 2004 (2004-10-03) |
12 | Quagmire (泥濘, Deinei?) | 10 tháng 10, 2004 (2004-10-10) |
13 | No Return (不還, Fugen?) | 17 tháng 10, 2004 (2004-10-17) |
OVA | In the rain, or, how can a girl have reached such feelings? (通り雨にて 或いは, 少女はいかにしてその心情に至ったか?, Tōriame ni te arui wa, shōjo wa ikani shi te sono shinjō ni itatta ka??) | 21 tháng 4, 2005 (2005-04-21) |
Đạo diễn | Mamoru Kanbe |
---|---|
Biên kịch | Takao Yoshioka |
Sản xuất | Kazuaki Morijiri Manabu Tamura Osamu Koshinaka |
Chỉ đạo nghệ thuật | Akira Ito Kiyoshi Ito |
Thiết kế mỹ thuật | Tomoyuki Aoki |
Thiết kế nhân vật | Seiji Kishimoto |
Chịu trách nhiệm kĩ thuật | Hiroyuki Ogawa Hiroyuki Taiga |
Hiệu ứng màu sắc | Ryota Nakada |
Hình thức | Takeshi Seyama |
Kế hoạch | Man Ooshima Mitsuru Ohshima Taro Maki |
Hướng âm | Katsunori Shimizu |
Hiệu ứng âm thanh | Mutsuhiro Nishimura |
Ghi âm | Norio Nishizawa Megumi Kato |
Âm nhạc | Kayo Konishi Yukio Kondō |
Trình bày ca khúc | Kumiko Noma (mở đầu) Chieko Kawabe (kết thúc) |
Mamoru Kanbe được giới thiệu vào vị trí đạo diễn của loạt phim bởi nhà biên kịch và phụ trách hình ảnh Takao Yoshioka, ông cho rằng phong cách chú trọng các nhân vật truyện tranh của Kanbe là lý tưởng để chuyển thể bộ manga thành loạt phim truyền hình. Đầu tiên Kanbe tỏ ra không có nhiều hứng thú trong việc tham gia sản xuất loạt phim; tuy nhiên, ông đã rất hào hứng tham gia dự án sau khi đọc bộ manga của Okamoto, vốn vẫn còn được tiếp tục xuất bản cho đến lúc bấy giờ.[75]
Kanbe nghĩ rằng: «Trước hết, đó là một câu chuyện tình yêu mà ông có thể thực hiện theo cách khiến cho khán giả không thể kìm được nước mắt».[75] Thêm vào đó, trong suốt quá trình thực hiện loạt phim, ông còn thử nghiệm việc đưa vào sự đối lập về những trạng thái cảm xúc nổi bật, sử dụng bạo lực như một yếu tố quan trọng nhất để chuyển tiếp. Kamakura, theo nhóm sản xuất là bối cảnh lý tưởng để phát triển tác phẩm kịch tính cảm động và đầy tính suy ngẫm này. Sự bình yên và địa hình của nơi này chứa đựng một bức tranh nền tuyệt vời cho phần lõi sâu sắc và kinh dị của loạt phim.[76]
Elfen Lied được đánh giá cao về nội dung và xuất sắc về kĩ thuật dựng phim, hình ảnh cũng như màu sắc.[77] Tuy nhiên, vì phim có thể hiện những cảnh khoả thân và xu hướng tình dục (vốn ít xuất hiện trong anime), đã bị phê bình là «quá lộ liễu và cứng nhắc» hay «quá gượng ép» tại nhiều thời điểm.[78][79] Những đoạn máu me và chết chóc ngay từ những phút đầu tiên của tập thứ nhất đã ngăn cản nhiều người xem phim và gây nhiều tranh cãi sau khi phát hành.[78] Nhìn chung, hầu hết các tập phim đều thể hiện yếu tố kinh dị và fanservice với những cảnh bạo lực quá mức, xuất hiện nhiều cảnh khoả thân và một chút mập mờ về tình dục.
Mặc dù có sự tham gia của nhiều diễn viên lồng tiếng đầy kinh nghiệm, bao gồm cả Noto Mamiko và Kira Vincent-Davis, các phiên bản tiếng Nhật, Anh và Tây Ban Nha đã bị chỉ trích vì lẫn khá nhiều tạp âm xen kẽ tiếng Nhật và Anh ở 3 tập đầu.[77] Chưa kể đến việc nó kết thúc một cách đột ngột, rời rạc và làm cho người xem không hài lòng.[80]
Bất chấp những đều đó, các nhà phê bình phương Tây vẫn đánh giá bộ phim là «một chương trình tuyệt vời[78], «một bộ phim kinh dị đáng khen»[80], «xứng đáng để nhớ mãi»[7] và «một anime đặc biệt, có sự cân nhắc cả thói tốt lẫn thói xấu».[81] Các thành viên Anime News Network đã đánh giá bộ phim đạt 8,39 trên 10 điểm, với hơn 4.700 phiếu bầu và đứng ở vị trí 68 trong bảng xếp hạng anime hay nhất của họ.[2] AnimeReactor Community Awards năm 2004 đã trao cho bộ phim các giải thưởng:[82]
Thêm vào đó, trong lễ trao giải thưởng American Anime awards năm 2007, bộ phim được đề cử cho vị trí «Xê-ri phim ngắn hay nhất»[83], mặc dù cuối cùng FLCL đã đoạt giải.[84]
Sự lan rộng và phổ biến của Elfen Lied đã tạo ra một số chương trình nghệ thuật và văn học dành cho người hâm mộ, điển hình như webcomic Nana's Everyday Life (Cuộc sống thường ngày của Nana) do Daniel Kim sáng lập;[85][86] Chương trình hài này được dịch ra một phần hay toàn bộ khoảng 10 ngôn ngữ, nhân vật chính có vẻ như là Nana và những câu chuyện đau khổ của cô.[87] Mặc dù được xem như là một trò chơi giải trí, nó đặc biệt thể hiện nhiều cảnh rất tàn bạo và không phù hợp đối với những người dưới độ tuổi vị thành niên.
Một soundtrack mang tên Elfen Lied OST được phát hành ngày 21 tháng 10 năm 2004 trên đĩa CD.[88] Sáng tác bởi Kayo Konishi và Yukio Kondō, thời lượng khoảng 40 phút và chia thành 15 bài hát:[89][90]
«Lily» hay «Lilium» là bài hát chủ đề của toàn bộ anime, được sử dụng cho phần mở của mỗi tập phim.[91] Tác giả đã kết hợp các đoạn kinh thánh và các bài thánh ca để làm giai điệu cùng bài hát với nền là tiếng Latin khiến cho nó có phong cách như một bài Thánh ca Gregorian[91], khi nghe sẽ cảm nhận được sự buồn đau ẩn sâu và chồng chất mà các nhân vật phải chịu đựng.
Sau đây là toàn bộ lời của bản gốc (tiếng Latinh) và nguồn được trích dẫn từ kinh thánh của ca khúc «Lily», cùng với bản dịch sang tiếng Việt từ tiếng Tây Ban Nha:[91]
Os iusti meditabitur sapientiam, | Tiếng nói của công lý sẽ soi sáng lẽ phải, |
et lingua eius loquetur iudicium (...) | và chính lẽ công bằng sẽ nói lời phán xét (...) |
«Os iusti»[92][93][94] | |
Beatus vir qui suffert tentationem, | Thần thánh là người chịu đựng mọi cám dỗ cuộc đời, |
quoniam cum probates fuerit accipiet coronam vitae (...) | một khi cố gắng vượt qua thử thách, người đó sẽ nhận được vòng nguyệt quế của cuộc sống (...) |
«Epístola de Santiago»[95] | |
Kyrie, ignis divine, (...) eleison | Ôi Chúa trời, Ôi ngọn lửa thiêng, (...) đều có lòng khoan dung |
«Kyrie, fons bonitatis»[96][97][98] | |
O, quam sancta, quam serena, | Ôi, thật thiêng liêng, thật yên bình, |
quam benigna, quam amoena (...) | thật nhân từ, thật dịu dàng, (...) |
O, castitatis lilium (...) | Ôi, đóa hoa huệ thanh khiết đến vô ngần (...) |
«Ave mundi spes Maria»[99][100] | |
Hầu hết các bản nhạc dùng trong anime điều được hòa tấu dựa trên bài hát chính này với nhiều nhạc cụ khác nhau, như bài hát mở đầu (do Noma Kumiko trình bày với giọng nữ cao cùng một dàn nhạc dương cầm và piano), saint (do một đoàn ca nam thực hiện)[101] hay các bài nhạc khác được thực hiện dưới sự phối nhạc của Kōta.[102]
«Be your girl» là bài nhạc kết thúc của mỗi tập anime. Bài hát theo phong cách J-Pop nhẹ nhàng được trình diễn bởi Kawabe Chieko hoàn toàn ngược với chủ đề kinh dị của phim nó nói lên các mối quan hệ tình cảm nhẹ nhàng giữa Nyu và Kōta[103] dù vậy nhà sản xuất không đưa ra lời bình luận nào. Được phát hành vào ngày 28 tháng 04 năm 2004 nó cũng đánh dấu cho việc xuất hiện của Kawabe trước công chúng. Bài hát còn được đứng ở vị trí thứ 67 tại bảng xếp hạng Oricon và vẫn giữ nguyên như thế sau ba tuần.[104]
Thực đơn
Elfen_Lied AnimeLiên quan
Elfen LiedTài liệu tham khảo
WikiPedia: Elfen_Lied http://www.mon-programme-tv.be/television/21561365... http://www.animangaweb.com/noticias.php?idn=3229&c... http://www.animenewsnetwork.com/encyclopedia/anime... http://www.animenewsnetwork.com/encyclopedia/anime... http://www.animenewsnetwork.com/encyclopedia/anime... http://www.animenewsnetwork.com/encyclopedia/manga... http://www.animenewsnetwork.com/encyclopedia/manga... http://www.animenewsnetwork.com/encyclopedia/searc... http://www.animenewsnetwork.com/news/ng%C3%A0y http://www.animenewsnetwork.com/press-release/ng%C...