Eberhart (
Edward)
Julius Dietrich Conze,
1904-
1979, là một triết gia và một nhà Phật học lỗi lạc
người Anh (gốc
Đức). Ông đã phiên dịch và sắp xếp bộ
Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh theo hệ thống và cũng từ đây, tư tưởng
Đại thừa đã lan truyền khắp
châu Âu,
Mĩ. Đối với
Phật tử châu Âu, những tác phẩm của ông là tài liệu nghiên cứu tu tập Phật pháp quý báu không thể bỏ qua được.Ông sinh
ngày 18 tháng 3 năm
1904 tại Forest Hill, Lewisham,
London trong một gia đình gốc Đức. Cha của ông trước là một nhân viên ngoại giao, sau làm quản đốc một quan toà tại thành phố
Düsseldorf, Đức. Conze trưởng thành và được giáo dục tại Đức (lúc này mang tên Eberhard thay vì Edward về sau) và nơi đây, ông sớm biểu hiện những cá tính đặc thù: Sự cảm nhận nhạy bén cho những vấn đề xã hội, lòng căm phẫn trước những trào lưu "ái quốc cực đoan của Toàn đức quốc xã", lòng yêu thiên nhiên và một cuộc sống tĩnh mịch ở thôn quê.Năm lên 13, Conze đã có dịp nghe chút ít về
Phật giáo. Ông học triết, tâm lý và
Ấn Độ học tại đại học Tübingen,
Heidelberg,
Kiel và
Köln. Tại Heidelberg, Max Walleser - một trong những người đầu tiên dịch kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sang
tiếng Đức - đã hướng dẫn ông vào tư tưởng Phật giáo Đại thừa Phật (
1924/
25) và qua Heinrich Rickert, ông cũng có dịp làm quen với
Thiền tông (ja. zen). Năm
1928, ông làm luận án tiến sĩ (Dr. phil.) tại Köln với tựa đề Khái niệm Huyền học của Franciscus Suarez S. J. (Der Begriff der Metaphysik bei Franciscus Suarez S. J.). Cũng trong năm này, ông gia nhập đảng
Cộng sản và nhân dịp này, ông nói với một người bạn thân: "Như anh thấy, tôi mang nhiều gương mặt!"Năm
1932, ông cho xuất bản tác phẩm Phương thức đối lập. Bình luận về học thuyết Duy vật biện chứng (Der Satz von Widerspruch. Zur Theorie des Dialektischen Materialismus). Vì những hành vi chống
Đức quốc xã nên ông phải rời Đức (
1933), tị nạn sang Anh quốc và không lâu sau, ông nhập quốc tịch
Anh. Chỉ vài năm sau, ông rời bỏ Đảng cộng sản.Từ
1933 trở đi, ông sinh sống bằng cách dạy tâm lý và triết học tại Oxford và London. Các tác phẩm của
D.T. Suzuki và một học giả Ấn Độ Har Dayal lại hướng dẫn ông trở về với Phật giáo. Từ
1943 đến
1949, ông nghiên cứu rất nhiều về Ấn Độ học, gia nhập giáo hội Phật giáo tại London (Buddhist Society) và cũng tổ chức nhiều buổi thuyết giảng. Trong những năm sau
chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã cho xuất bản khoảng 20 quyển sách và hơn 100 tiểu luận về những vấn đề của Phật giáo và chính những tác phẩm này đã làm cho tên ông lan truyền khắp mọi nước. Ông đã từng thuyết giảng tại
Madison, Wisconsin (1963/64),
Seattle, Washington (1965/68),
Bonn (1969/79) và
Berkeley,
Santa Barbara (1972/73).Năm
1973, Conze đình chỉ việc thuyết giảng, lui về quê nhà tại Sherborne, Somerset và từ đây chỉ chuyên chú vào việc nghiên cứu Phật học. Những điểm nghiên cứu trung tâm của ông chính là triết lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa và về vấn đề này, ông đã xuất bản hàng loạt tiểu luận. Ông cũng đã dịch sang Anh ngữ và xuất bản nhiều bài kinh thuộc hệ này.Năm
1979, ông cho ra một quyển hồi ký với tựa The Memoirs of a Modern Gnostic. Ông luôn luôn tự cho mình là một người có cá tính mâu thuẫn. Conze có một cái nhìn, một cảm nhận sâu sắc cho những vấn đề, nhân sinh quan khác biệt của thế kỉ này. Quyển hồi ký của ông đã chứng tỏ khả năng, nghệ thuật "bao dung nhiều quan điểm" của ông. Đối với Conze, lối sống có thể chấp nhận được là lối sống của người Anh, đạo lý có thể chấp nhận được là Phật pháp.Ông mất ngày
24 tháng 9 năm
1979 tại Yeovil, Somerset, London.