Cánh đồng hoang (
tiếng Ukraina: Дике Поле, chuyển tự Dyke Pole,
tiếng Nga: Дикое Поле, chuyển tự Dikoye Polye,
tiếng Ba Lan: Dzikie pola,
tiếng Litva: Dykra,
tiếng Latinh: Loca deserta hoặc campi deserti inhabitati, còn dịch là "miền hoang vu") là một thuật ngữ lịch sử được sử dụng trong các tài liệu
Ba Lan-Litva từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18
[1] để chỉ phần
thảo nguyên Pontic trên lãnh thổ nay là
Đông và
Nam Ukraina và một phần Tây Nga, nằm ở phía bắc của
biển Đen và
biển Azov. Theo sử gia Ukraina Vitaliy Shcherbak thuật ngữ này xuất hiện vào khoảng thế kỷ 15, chỉ lãnh thổ giữa sông
Dniester và trung du sông
Volga khi
người Cossack Zaporozhia bắt đầu thuộc địa hóa khu vực.
[2] Shcherbak lưu ý rằng những người cùng thời với thuật ngữ này, chẳng hạn như
Michalo Lituanus,
[3][4] Blaise de Vigenère và
Józef Wereszczyński,
[5] đã viết về sự giàu có tự nhiên của thảo nguyên và lưu vực
sông Dnepr.
[2]Trong nhiều thế kỷ, khu vực này chỉ có dân cư thưa thớt, thuộc nhiều nhóm du mục khác nhau như
Scythia,
Alan,
Hung,
Bulgar,
Pecheneg,
Kipchak,
Đột Quyết-Mông Cổ,
Tatar và
Nogai.
[6] Sau khi
Mông Cổ xâm lược Rus, lãnh thổ do
Hãn quốc Kim Trướng cai trị cho đến
trận Nước Xanh (1362). Trận chiến cho phép
Algirdas yêu sách chủ quyền khu vực thuộc
Đại công quốc Litva. Là một kết quả sau
trận sông Vorskla năm 1399, người kế vị ông là
Vytautas để mất lãnh thổ cho Hãn
Temür Qutlugh của Kim Trướng. Năm 1441, phần phía tây của Cánh đồng hoang,
Yedisan, nằm dưới quyền chi phối của
Hãn quốc Krym, thực thể chính trị này do
Đế quốc Ottoman kiểm soát từ thế kỷ 16 trở đi. Cánh đồng hoang cũng là nơi cư trú cục bộ của
người Cossack Zaporizhia, theo như phản ánh trong các tác phẩm của nhà thần học người Ba Lan và là giám mục Công giáo Kiev Józef Wereszczyński, họ định cư trong khu vực theo điều kiện là phải chiến đấu chống lại sự bành trướng của người
Nogai.
[5][2]Cánh đồng hoang có Đường Muravsky và Đường Izyumsky đi qua, đó là những tuyến đường chiến tranh quan trọng được người Tatar Krym sử dụng để xâm chiếm và cướp phá
Đại công quốc Moskva.
[7] Các vụ tập kích của Krym-Nogai diễn ra trong thời gian dài, người Tatar Krym và Nogai chung một phe còn
Đại công quốc Litva và Đại công quốc Moskva ở phe khác, gây ra sự tàn phá và suy giảm dân số đáng kể trong khu vực. Tình trạng này chấm dứt khi
người Cossack Zaporozhia trỗi dậy, họ định kỳ xuôi về hạ du
sông Dnepr bằng
thuyền độc mộc từ căn cứ tại
Khortytsia và tập kích vùng bờ biển của biển Đen. Người Ottoman xây dựng một vài thị trấn pháo đài nhằm phòng thủ vùng ven biển, bao gồm
Kara Kerman và
Khadjibey.Điều khiến "Cánh đồng hoang" quá đáng sợ là do người Tatar. Năm này qua năm khác, họ cử các nhóm đột kích nhanh tràn xuống các thị trấn và làng mạc để cướp bóc, giết hại những người già yếu, và xua hàng nghìn người bị bắt đem đi bán làm nô lệ tại cảng
Kaffa của Krym, một thành phố thường được người Nga gọi là "ma cà rồng uống máu của người Rus'...Ví dụ, từ năm 1450 đến năm 1586, 86 cuộc đột kích đã được ghi lại và từ năm 1600 đến năm 1647 là 70. Mặc dù ước tính số lượng người bị bắt trong một cuộc đột kích có thể đạt cao tới 30.000, nhưng con số trung bình là gần 3.000...Riêng tại
Podolia, khoảng một phần ba số làng bị tàn phá hoặc bỏ hoang trong khoảng thời gian từ 1578 đến 1583.
[8]Đến thế kỷ 17, phần phía đông của Cánh đồng hoang đã được những người nông dân và nông nô chạy trốn đến định cư, họ tạo nên cốt lõi của lãnh địa Cossack.
[9] Trong
Khởi nghĩa Bohdan Khmelnytsky, người Cossack từ lưu vực sông Dnepr đến định cư tại phần phía bắc của khu vực này, và bộ phận này được gọi là
Sloboda Ukraina. Sau một loạt cuộc chiến giữa Nga và Ottoman do
Yekaterina Đại đế tiến hành, khu vực từng nằm dưới quyền kiểm soát của Ottoman và người Tatar Krym lúc này được hợp nhất vào Đế quốc Nga trong thập niên 1780. Đế quốc Nga xây dựng nhiều thành phố tại Cánh đồng hoang, gồm
Odessa,
Sevastopol,
Yekaterinoslav và
Nikolaev. Hầu hết
Kiev cũng được xây dựng trong thời gian này. Khu vực tiếp nhận nhiều người Ukraina và người Nga đến định cư và tên gọi "Cánh đồng hoang" trở nên lỗi thời; khu vực thay vào đó được gọi là Tân Nga (
Novorossiya).
[10] Theo Từ điển lịch sử Ukraina, "Dân số bao gồm những người thực dân quân sự từ các trung đoàn kỵ binh hussar và kỵ binh đánh thương, nông dân Ukraina và Nga, người Cossack,
người Serb,
người Montenegro,
người Hungary và những người nước ngoài khác đã nhận được trợ cấp đất đai để định cư trong khu vực."
[11]Vào thế kỷ 20, sau khi
Liên Xô sụp đổ, khu vực này bị chia cắt giữa Ukraina, Moldova và Nga.