Corundum là một dạng
kết tinh của
ôxít nhôm (Al
2O
3) với một ít tạp chất gồm
sắt,
titan và
crôm[1] và là một trong các
khoáng vật tạo đá. Thường corundum tinh khiết không màu, nhưng khi lẫn tạp chất thì có nhiều màu khác nhau. Các mẫu trong suốt được dùng làm
đá quý như
ruby có màu đỏ, và
sa-phia bao gồm các màu còn lại.
Sa-phia màu cam sắc tím ở
Ấn Độ được gọi là
padparadscha và sa-phia màu đỏ nhạt được gọi là patmaraga.Do corundum có độ cứng cao (corundum nguyên chất có độ cứng là 9,0 theo
thang độ cứng Mohs), nên nó có thể rạch xước hầu hết các khoáng vật khác, để lại sau đó vết vạch màu trắng trên các khoáng vật đó. Corundum thường được dùng làm
bột mài, từ giấy mài tới các máy lớn trong gia công kim loại, gỗ và nhựa. Một vài dạng
emery là hỗn hợp của corundum và các chất khác, khi đó khả năng mài sẽ giảm, và
độ cứng trung bình khoảng 8,0.Ngoài độ cứng cao, corundum còn có
tỷ trọng riêng lớn vào khoảng 4,02 g/cm³, và đây là tỷ trọng rất lớn trong số các khoáng vật được cấu tạo từ các
nguyên tố nhẹ như
nhôm và
ôxy.Corundum có mặt trong các
đá biến chất như
diệp thạch,
gơnai, và
đá hoa ở dạng tinh thể. Đôi khi nó xuất hiện trong
syenit ít silica và
nephelin syenit xâm nhập. Nó cũng có mặt trong các đá xâm nhập
siêu mafic ở dạng khối, cùng với
đai mạch lamprophyr và kết tinh thành tinh thể lớn trong
pegmatit. Do có độ cứng lớn nên corundum khó bị
phong hóa và vì vậy nên chúng có thể xuất hiện ở dạng
sa khoáng trong lòng sông hoặc bãi biển cát.Corundum khai thác ở
Zimbabwe,
Nga và
Ấn Độ, thường dùng để sản xuất làm bột mài. Corundum từng được khai thác từ trầm tích phong hóa từ
dunit ở
Bắc Carolina và từ
nephelin syenit ở
Craigmont, Ontario.
Emery corundum được tìm thấy ở
Hy Lạp, đảo
Naxos và gần
Peekskill, New York. Corundum mài được sản xuất từ
bauxit.