Cao Ly Tuyên Tông (
Hangul: 고려 선종,
chữ Hán: 高麗 宣宗; 9 tháng 10 năm 1049 – 17 tháng 6 năm 1094, trị vì 1083 – 1094) là quốc vương thứ 13 của
Cao Ly. Ông được phong tước hiệu Quốc Nguyên hầu (國原侯) vào tháng 3 năm 1056.
Cao Ly Thuận Tông anh ông băng hà như lại không có con thừa tự nên ông đã kế vị ngai vàng, tôn mẹ mình lên làm Thái hậu.Sự cân đối giữa
Nho giáo và
Phật giáo đã khiến cho vị thế chính trị của ông trở nên vững chắc. Ngoài ra, ông còn thúc đẩy thương mại trên phạm vi rộng lớn với
nhà Tống,
Nữ Chân,
nhà Liêu và
Nhật Bản. Ông có tên húy là
Vương Vận (王運, 왕운, Wang Un), tên chữ là
Kế Thiên (繼天, 계천, Gyecheon).Dưới thời trị vì của ông,
Phật giáo tại Triều Tiên đã phát triển nhiều. Em trai
Nghĩa Thiên (義天; 의천)
[1] của ông đã đưa 1,000 kinh điển Phật giáo từ
Tống và 4.000 từ
Liêu,
Tống, và
Nhật Bản. Hơn nữa, ông còn lập ra nhiều đền chùa Phật giáo.Ông mất năm 1094, tại vị được 11 năm, thọ 45 tuổi. Được truy thụy là
An Thành Khoan Nhân Hiển Thuận Tư Hiếu Đại vương (安成寬仁顯順思孝大王), táng tại Nhân lăng (仁陵). Con trai ông là Vương Dục kế vị, tức
Cao Ly Hiến Tông. Tuy nhiên Hiến Tông chết yểu khi mới 13 nên vương đệ Vương Ngung (tức
Cao Ly Túc Tông), em của Tuyên Tông lên ngôi.