Bethlehem Shipbuilding Corporation,
Fore River Shipyard,
Quincy, Massachusetts,
Bethlehem Shipbuilding Corporation,
San Francisco,
Xưởng hải quân Charleston,
Consolidated Steel Corporation,
Orange, Texas,
Defoe Shipbuilding Company,
Bay City, Michigan,
Dravo Corporation,
Pittsburgh, Pennsylvania,
Xưởng hải quân Norfolk,
Sau chiến tranhLớp tàu khu trục hộ tống Buckley bao gồm 102
tàu khu trục hộ tống được
Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào những năm
1943–
1944. Chúng phục vụ trong
Chiến tranh Thế giới thứ hai như những tàu hộ tống vận tải và
chống tàu ngầm. Chiếc
USS Buckley dẫn đầu được hạ thủy ngày
9 tháng 1,
1943. Các con tàu được trang bị động cơ turbine-điện
General Electric, từng bộ phận được tiền chế tại nhiều nhà máy khác nhau khắp
Hoa Kỳ, rồi được vận chuyển và lắp ghép hàn lại tại xưởng tàu, giúp rút ngắn thời gian chế tạo.Buckley là lớp tàu khu trục hộ tống thứ hai, tiếp theo sau
lớp Evarts. Một trong những khác biệt chính trong thiết kế là lườn tàu được kéo dài hơn đáng kể, một thành công lớn của lớp Buckley nên được tiếp tục áp dụng cho mọi lớp tàu khu trục hộ tống tiếp theo sau. Lớp này còn được gọi là kiểu TE (Turbo Electric), mà sau này được thay bằng cấu hình động cơ diesel-điện trên thiết kế
lớp Cannon tiếp nối (DET: Diesel Electric).
[1]Có tổng cộng 154 chiếc được đặt hàng, trong đó 6 chiếc được hoàn tất như những
tàu vận chuyển cao tốc ("APD"). Có thêm 37 chiếc được cải biến sau khi hoàn tất cùng 46 chiếc lớp Buckley được chuyển giao cho
Hải quân Hoàng gia Anh theo
Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). 46 chiếc này được xếp lớp như những
tàu frigate và đặt tên theo các hạm trưởng Hải quân Anh thời
Chiến tranh Napoleon, hình thành nên một phần của
lớp Captain cùng với chiếc Lend-Lease khác thuộc lớp Evarts.Sau chiến tranh, một số lớn những chiếc còn sống sót được chuyển cho
Đài Loan,
Hàn Quốc,
Chile,
Mexico và các nước đồng minh khác. Những chiếc khác được giữ lại trong thành phần dự bị của Hải quân Mỹ cho đến khi được rút đăng bạ và tháo dỡ.