Tàu frigate (còn được gọi theo phiên âm
tiếng Việt là tàu phơ-ri-ghết) là một loại
tàu chiến. Từ ngữ này được dùng cho nhiều tàu chiến với nhiều kích cỡ và vai trò khác nhau trong vài thế kỷ gần đây. Theo vai trò gần đây, trong
tiếng Việt có thể dịch "tàu frigate" là
tàu hộ tống; một số tài liệu dịch là
tàu khu trục nhỏ. Báo Quân đội Nhân dân Việt Nam gọi tàu Đinh Tiên Hoàng của Hải quân Nhân dân Việt Nam - một chiếc thuộc
lớp Gepard-3.9 - và tàu
FFG-54 của Hải quân Hoa Kỳ là
tàu hộ vệ[1][2][3], trong khi gọi
lớp tàu FREMM và
lớp La Fayette của Pháp,
lớp tàu Oliver Hazard Perry của Hoa Kỳ, và
tàu Narusen của Thái Lan,
lớp tàu Type 26 của Anh và Na Uy,
lớp Nansen của Na Uy là
khinh hạm[4][5][6][7][8]. Căn cứ theo như tính năng và công dụng của tàu, tiếng Hán gọi loại tàu này là
tuần phòng hạm (巡防艦). Cần lưu ý là tên gọi tàu hộ vệ cũng dùng cho loại tàu nhỏ hơn, có tên tiếng Anh là corvette (xem
tàu corvette).Vào
thế kỷ 17, từ frigate được sử dụng để chỉ mọi tàu chiến được chế tạo cho tốc độ và sự cơ động, mô tả thường dùng là "được chế tạo như frigate". Chúng có thể là những tàu chiến mang dàn pháo chính là pháo gắn trên bệ bố trí trên một
sàn tàu duy nhất hoặc trên hai sàn tàu (với những khẩu pháo trên bệ nhỏ hơn bố trí trên sàn trước và sàn sau con tàu). Frigate được dùng chung để chỉ những con tàu quá nhỏ không thể đứng trong
hàng chiến trận, mặc dù các tàu chiến tuyến ban đầu thường được xem là tàu frigate do chúng được chế tạo để có tốc độ nhanh.Sang
thế kỷ 18, từ ngữ này được dùng để chỉ những con tàu thường dài ngang với
tàu chiến tuyến, có các
cánh buồm vuông trên cả ba cột buồm, nhưng nhanh hơn và trang bị vũ khí nhẹ hơn, sử dụng trong nhiệm vụ tuần tra và hộ tống. Trong một định nghĩa được
Bộ Hải quân Anh Quốc sử dụng, tàu frigate là những
tàu được xếp hạng có ít nhất 28 khẩu pháo, mang dàn vũ khí chính trên một sàn tàu liên tục duy nhất là sàn trên, trong khi tàu chiến tuyến thường sở hữu hai hoặc nhiều hơn sàn tàu liên tục mang các dàn pháo. Tàu frigate không mang theo pháo trên các sàn tàu bên dưới; nhưng trong
Hải quân Hoàng gia Anh, sàn dưới lại thường được gọi là "sàn pháo" (trong
Hải quân Hoa Kỳ thường gọi là "sàn ngủ"), ngay cả cho frigate, trong khi nơi này không mang bất kỳ khẩu pháo nào. Cả hai kiểu tàu đều thường mang theo các khẩu pháo bổ sung đặt trên bệ nhỏ hơn bố trí ở sàn sau và cấu trúc thượng tầng phía trước. Về phương diện kỹ thuật, tàu được xếp hạng có ít hơn 28 không được xếp là tàu frigate mà gọi là "
Post-ship" (tàu vị trí); tuy nhiên, trong văn nói thông thường đa số Post-ship lại được mô tả là "frigate", tương tự như việc vô tình dùng sai thuật ngữ này mở rộng cho những tàu hai sàn pháo vốn quá nhỏ không thể đứng vào hàng chiến trận.Vào cuối
thế kỷ 19 (bắt đầu vào khoảng năm
1858 với việc chế tạo những chiếc kiểu mẫu của hải quân Anh và Pháp),
tàu frigate bọc thép là một kiểu
tàu chiến bọc sắt, và trong một thời gian là kiểu tàu chiến nổi mạnh mẽ nhất. Thuật ngữ "frigate" được sử dụng vì kiểu tàu này tiếp tục mang dàn hỏa lực chính trên sàn tàu trên liên tục duy nhất. Những chiếc
thiết giáp hạm cuối
thế kỷ 19 được phát triển từ những tàu frigate bọc thép hơn là từ những
tàu chiến tuyến.Trong hải quân hiện đại, tàu frigate được sử dụng để bảo vệ các tàu chiến khác và các tàu buôn, đặc biệt là như những tàu
chống tàu ngầm cho những lực lượng đổ bộ viễn chinh, các đội tiếp liệu dọc đường, và các
đoàn tàu vận tải (vì vậy tiếng Việt dịch tàu frigate là tàu hộ tống). Nhưng những lớp tàu được gọi tên là "frigate" đồng thời cũng tương tự như
tàu corvette (tàu hộ tống nhỏ),
tàu khu trục,
tàu tuần dương, và thậm chí là với cả
thiết giáp hạm.Cấp bậc cổ
Thuyền trưởng Frigate (tiếng Anh: Frigate Captain, tương đương Trung tá Hải quân ngày nay) xuất phát từ tên của kiểu tàu này; hiện vẫn được hải quân một vài nước tiếp tục sử dụng.