BMP-2
BMP-2

BMP-2

BMP-2 ([Боевая Машина Пехоты-2] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp), Boyevaya Mashina Pekhoty-2) là thế hệ xe chiến đấu bộ binh thứ hai, được Liên Xô thiết kế và đưa vào chế tạo từ thập niên 1980. So với BMP-1, BMP-2 không khác nhiều mà chỉ có một vài cải tiến để tăng khả năng tự vệ cho xe. Những cải tiến này được quyết định sau khi BMP-1 tham gia chiến đấu thực tế và bộc lộ những điểm yếu của nó trong Chiến tranh Yom Kippur.Trong các cuộc chiến tranh ở Afghanistan, Chechnya, các xe thiết giáp như xe chiến đấu bộ binh (BMP), xe bọc thép chở quân (BTR) đều bộc lộ nhược điểm lớn về khả năng sống còn, không an toàn cho kíp xe và bộ binh ngồi trong xe khi bị vấp mìn và trúng đạn, nên từ chiến tranh Afghanistan đến nay, bộ binh Liên Xô/Nga buộc phải ngồi trên nóc xe để cơ động chứ không dám ngồi trong xe.BMP-2 có tháp xe rộng hơn so với BMP-1. Xa trưởng sẽ ngồi trong tháp xe cùng với pháo thủ. Ngoài kíp xe, xe chỉ mang theo tối đa 7 chiến sĩ thay vì 8 như xe BMP-1. Hỏa lực trên xe trở nên mạnh hơn với pháo tự động 2A42 30 mm, súng máy PKT đồng trục 7,62 mm cùng hộp đạn 2.000 viên, và tên lửa chống tăng 9M111 Fagot hoặc 9M113 Konkurs. Ngoài ra, xe có thể được trang bị cả RPG-7 với cơ số đạn là 5 quả. Số lỗ châu mai mỗi bên xe giảm xuống còn 2. Giáp xe được tăng cường.

BMP-2

Tầm hoạt động 600 km
Vũ khíphụ Súng máy PKT 7,62 mm
Tốc độ 65 km/h (trên đường)
45 km/h (ngoài đường)
Chiều cao 2,45 m
Chiều dài 6,72 m
Kíp chiến đấu 3 (+7 chiến sĩ)
Loại Xe chiến đấu bộ binh
Hệ thống treo torsion bar
Công suất/trọng lượng 21 hp/tấn
Khối lượng 14,3 tấn
Nơi chế tạo  Liên Xô
Vũ khíchính 2A42
9M113 Konkurs
Động cơ diesel UTD-20/3
300 hp (225 kW)
Nhà sản xuất Kurganmashzavod
Phương tiện bọc thép 33 mm (max) [1]
Chiều rộng 3,15 m