Hỗ trợ: Hoa Kỳ Tây Đức Hàn Quốc ÚcHỗ Trợ: Liên Xô Đông ĐứcCác nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩaHafez al-AssadAhmad Ismail AliHosni Mubarak Mohammed Aly Fahmy Anwar Sadat Abdel Ghani el-Gammasy Abdul Munim Wassel Abd-Al-Minaam Khaleel Abu Zikry Leonid Brezhnev800 cố vấn Mỹ và Tây Đức
Syria: 150.000 quân
1.200 xe tăng
600 khẩu pháo
300 + máy bay
65 hệ thống tên lửa SAM, 400 pháo phòng không
Iraq: 60 ngàn quân, 300 xe tăng và xe bọc thép, 54 pháo, 73 máy bay
Jordan: Vài ngàn quân, 150 xe tăng và 200 xe bọc thép, 36 pháo, vài máy bay
Cuba: ~4.000 quân tình nguyện, 26 trực thăng
Triều Tiên: 21 phi công Mig, 19 quân phòng không
Maroc: ~5.500 quân, 30 xe tăng, 52 máy bay
Hỗ Trợ:CHDC Đức: 12 máy bay Mig, 62 xe tăng T55, 75 ngàn quả lựu đạn và 30 ngàn mìn.
Syria: 2.704 chết hoặc mất tích
5.000-6.000 bị thương
309 bị bắt
1.116 xe tăng và xe bọc thép
168 máy bay
13 dàn tên lửa SAM
5 tàu tên lửa, 1 tàu phóng lôi, 1 tàu quét mìn (trên biển)
[10]Iraq: 278 chết, 898 bị thương
200 xe tăng và xe bọc thép
21 máy bay
Jordan: 23 chết, 77 bị thương
50 xe tăng và xe bọc thép
Cuộc chiến Yom Kippur,
Chiến tranh Ramadan hay
Cuộc chiến tháng 10 (
tiếng Hebrew: מלחמת יום הכיפורים; chuyển tự: Milkhemet Yom HaKipurim or מלחמת יום כיפור, Milkhemet Yom Kipur;
tiếng Ả Rập: حرب أكتوبر; chuyển tự: harb 'uktubar hoặc حرب تشرين, ħarb Tishrin), hay
Chiến tranh A Rập-Israel 1973 và
Chiến tranh A Rập-Israel thứ tư, là cuộc chiến diễn ra từ 6 cho tới 26 tháng 10 năm 1973 bởi liên minh các quốc gia A Rập dẫn đầu bởi
Ai Cập và
Syria chống lại
Israel. Cuộc chiến khởi phát khi quân Ai Cập và Syria bất ngờ đồng loạt tấn công Israel trong ngày lễ
Yom Kippur, ngày lễ sám hối thiêng liêng của người Do thái. Ai Cập và Syria vượt qua tuyến ngưng bắn tại
bán đảo Sinai và
Cao nguyên Golan, vốn bị Israel chiếm năm 1967 trong cuộc
Chiến tranh Sáu ngày.
[11]Quân Ai Cập và Syria chiến thắng trong vòng 5 ngày đầu, sau đó tình hình xoay chuyển theo hướng có lợi cho Israel. Tới tuần thứ hai của cuộc chiến, quân Syria đã bị đánh bật khỏi Cao nguyên Golan. Tại Sinai, quân Israel đánh vào chỗ nối tiếp hai đạo quân Ai Cập, vượt
kênh đào Suez (là tuyến ngưng bắn trước đó), đe dọa cô lập Quân đoàn 3 Ai Cập, trước khi lệnh ngưng bắn của
Liên Hiệp Quốc có hiệu lực.Cuộc chiến có ảnh hưởng sâu rộng vì nhiều lý do khác nhau. Thế giới A Rập, vốn bị đánh thua đau trong cuộc
chiến tranh Sáu ngày, phấn chấn về mặt tâm lý bởi một chuỗi thắng lợi lúc mở màn cuộc chiến. Đối với Israel, tuy phản công thắng lợi vào giai đoạn sau, nhưng tổn thất nặng về vũ khí và nhân lực khiến nước này bị sốc và cảm thấy cần đàm phán hòa bình với khối A Rập. Tâm lý này mở đường cho cho quá trình đàm phán hòa bình tiếp đó, và cũng khởi đầu cho các chính sách tự do hóa của Ai Cập. Hiệp định hòa bình Trại David (1978) dẫn đến việc bình thường hóa quan hệ giữa Ai Cập và Israel—lần đầu tiên một quốc gia Ả Rập công nhận quốc gia Do thái, đổi lại Israel sẽ trả lại lãnh thổ đã chiếm của Ai Cập. Chính phủ Ai Cập, sau khi đạt được mục đích, đã bắt đầu xa lánh và tách hoàn toàn khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô (cũ).