Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba diễn ra sau Đại hội kết tập lần thứ hai đúng 118 năm, nghĩa là sau khi Đức
Phật nhập
Niết bàn khoảng 218 năm, tức là khoảng năm
325 TCN. Đại hội kéo dài khoảng 9 tháng dưới sự chủ tọa của
Moggaliputta-Tissa (Mục-kiền-liên-tử Ðế-tu). Địa điểm diễn ra đại hội là vườn Uyỳana, thành Pàtaliputta (thành phố
Patna ngày nay), nước
Magadha (miền Trung Ấn Độ). Số người tham gia đại hội là 1.000 người.
[1][2]Mục đích của đại hội là ngăn chặn việc các sư đem giáo luật ngoại đạo giảng cho tín đồ, qua đó ngăn chặn rạn nứt trong
tăng đoàn. Thể thức kết tập cũng giống hai lần đại hội trước. Sau khi kết tập, Moggaliputta-tissa đã soạn sách Thuyết sự (Kathàvatnu) để phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo đương thời.
[3][4] Một công việc quan trọng khác của Đại hội này là biên tập lại các bộ luận. Từ đó,
kinh điển Phật giáo được hệ thống hóa đầy đủ thành
tam tạng gồm tạng Luật, tạng Kinh và tạng Luận. Moggaliputta-tissa giao cho đệ tử phổ biến tam tạng này sang 9 nước khác gồm: Lankadipa (
Sri Lanka), Suvannabhumi (Mon /
Myanmar,
Thái Lan), Himavanta (ở
Himalaya), Yona (
Hy Lạp)... trong đó việc truyền sang Lankadipa do
Ma-hi-đà - con trai của vua
Ashoka - thực hiện.Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba chỉ được thuật lại trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (bộ sớ giải Luật tạng của
Phật giáo Thượng tọa bộ). Thư tịch Phật giáo
Đại chúng bộ không ghi chép.Người bảo trợ đại hội là
Ashoka Vardhana (Ashoka Đại đế), vị vua thứ ba của
vương triều Maurya nước Magadha.
[3][4]