Từ_Hi_Thái_hậu
Từ_Hi_Thái_hậu

Từ_Hi_Thái_hậu

Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu (chữ Hán: 孝欽顯皇后; tiếng Mãn: ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ
ᡤᡳᠩᡤᡠᠵᡳ
ᡳᠯᡝᡨᡠ
ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ, Möllendorff: hiyoošungga gingguji iletu hūwangheo, Abkai: hiyouxungga gingguji iletu hvwangheu; 29 tháng 11 năm 183515 tháng 11 năm 1908), thường được gọi là Từ Hi Thái hậu (慈禧太后) hoặc Tây Thái hậu (西太后), là phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế, mẹ đẻ của Thanh Mục Tông (Đồng Trị). Bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính của triều đình nhà Thanh cùng với Từ An Thái hậu khi Đồng Trị Đế lên ngôi. Sau khi Đồng Trị mất, Thanh Đức Tông (Quang Tự) lên ngôi, bà lại tiếp tục nhiếp chính.Năm 1861, Hàm Phong mất, di chiếu cho Cố mệnh Bát đại thần cùng nhiếp chính cho vua mới là Đồng Trị còn nhỏ tuổi. Từ Hi Thái hậu đã cùng Từ An Thái hậu - dưới sự giúp đỡ của Cung Thân vương Dịch Hân - đã tạo nên chính biến phế trừ cả Tám đại thần nhằm đạt được quyền lợi chính trị trước mâu thuẫn gay gắt với Túc Thuận, người đứng đầu Tám vị đại thần. Sau sự kiện này, Từ Hi Thái hậu và Từ An Thái hậu đồng nhiếp chính cho Tân Hoàng đế, trở thành 2 vị Hoàng thái hậu duy nhất của triều đại Thanh thực hiện [Thùy liêm thính chánh; 垂簾聽政].Theo cách hiểu thông thường, Từ Hi Thái hậu đã nắm đại quyền triều đại nhà Thanh trong vòng 47 năm, từ năm 1861 tới tận khi qua đời. Nhưng thực tế, bà chỉ có nắm toàn quyền ở hai giai đoạn: từ năm 1881 sau cái chết của Từ An Thái hậu, cho đến năm 1889 khi Quang Tự Đế thân chính; và từ năm 1898 đến khi qua đời năm 1908, sau sự kiện Bách nhật Duy tân. Tuy vào năm 1889, Quang Tự Đế tuyên bố thân chính, nhưng Từ Hi Thái hậu vẫn nắm thế lực đằng sau, gọi là [Huấn chính; 訓政]. Như vậy, bà nắm quyền thực tế tầm 27 năm.Sự kiện Bách nhật Duy tân của Quang Tự, là một sự kiện phát sinh do mâu thuẫn giữa Hoàng đế và Từ Hi Thái hậu trong vấn đề chính trị, và một trong những dự định của Quang Tự Đế là mật mưu cùng với Khang Hữu Vi để giam lỏng cùng ám sát Thái hậu, từ đó nắm được đại quyền trong tay. Sau khi Biến pháp thất bại, Quang Tự Đế bị giam lỏng, Từ Hi Thái hậu tiếp tục là nhà lãnh đạo tối cao, tiếp tục thực hiện [Huấn chính], và đây là khoảng thời gian đỉnh cao quyền lực nhất mà người đời sau biết về bà. Khi khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, liên quân 8 nước phương Tây tấn công Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu và hoàng tộc phải chạy tới Tây An. Năm 1901, sau khi Hòa ước Tân Sửu được ký kết, bà mới quay trở lại Bắc Kinh. Những năm cuối đời, Từ Hi Thái hậu nhận thấy thế nước quá suy yếu, nên cố gắng thực hiện nhiều cải cách nhất định ảnh hưởng đến nền chính trị Trung Quốc khi ấy, một trong những điều nổi tiếng nhất là việc giải phóng phụ nữ Trung Hoa khỏi tục bó chân[1]. Nhiều nhà sử học hiện đại ở Trung Quốc và hải ngoại thường miêu tả Từ Hi Thái hậu như một bạo chúa, người phải chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh, trong khi một số khác thì lại cho rằng các đối thủ của Thái hậu đã quá thành công trong việc quy tội bà về những vấn đề nằm ngoài khả năng kiểm soát của bà lúc đó. Đánh giá thực tế khách quan, bà không hề tàn nhẫn hơn hay kém những nhà lãnh đạo khác trên toàn thế giới, nếu không muốn nói đã ít nhiều là một nhà cải cách có hiệu quả trong những năm cuối đời, cho dù hành động này có phần miễn cưỡng bởi tình thế khó khăn của triều Thanh vào lúc ấy[2].Trong văn hóa đại chúng thường thức ở Trung Hoa đại lục, Từ Hi Thái hậu cùng với Võ Tắc Thiên thời Đường và Lã hậu thời Hán được xem là 3 người phụ nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa trong một thời gian dài, bị dân gian coi là những "gian hậu loạn triều" tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ xã tắc.

Từ_Hi_Thái_hậu

Thụy hiệu
Thụy hiệu
Hiếu Khâm Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Phối Thiên Hưng Thánh Hiển Hoàng hậu
(孝欽慈禧端佑康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙配天興聖顯皇后)
Thân mẫu Phú Sát thị
Kế nhiệm Thái hoàng thái hậu cuối cùng
Tước vị Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiển Sùng Hi Thánh Mẫu Hoàng thái hậu
(慈禧端佑康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙聖母皇太后)
Tiền nhiệm Chiêu Thánh Thái hoàng thái hậu
Quân chủ Đồng Trị Đế
Quang Tự Đế
Nhiếp chính 11 tháng 11, năm 1861
15 tháng 11, năm 1908
(&0000000000000047.00000047 năm, &0000000000000004.0000004 ngày)
(cùng với Từ An Thái hậu)
Đăng quang 25 tháng 4 năm 1862
Hậu duệHậu duệ
Hậu duệ
Thanh Mục Tông
Đồng Trị Hoàng đế
Sinh (1835-11-29)29 tháng 11 năm 1835
Bắc Kinh, Đế quốc Đại Thanh
Mất 15 tháng 11 năm 1908(1908-11-15) (72 tuổi)
Nghi Loan điện, Trung Nam Hải, Bắc Kinh
Phối ngẫu Thanh Văn Tông
Hàm Phong Hoàng đế
Tôn giáo Phật giáo
An táng 4 tháng 10 năm 1909
Định Đông Lăng (定东陵), Đông Thanh Mộ
Tại vị 21 tháng 10 năm 1908
- 22 tháng 10 năm 1908
Thân phụ Huệ Trưng

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Từ_Hi_Thái_hậu http://www.historychannel.com.au/classroom/day-in-... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qsltzcs... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslxfcs... http://www.56.com/u11/v_MjYwNjk3NjI.html http://www.aisixiang.com/data/61667.html http://zhidao.baidu.com/question/6163075.html http://www.britannica.com/biography/Cixi http://www.economist.com/node/21531524 http://www.scaruffi.com/politics/dictat.html http://www.thedailybeast.com/witw/articles/2013/10...