Tiếng Chukchi, còn gọi là
tiếng Chukot hay
tiếng Chuuk[3], là một ngôn ngữ
Chukotka-Kamchatka. Đây là ngôn ngữ của
người Chukchi miền viễn đông
Xibia, sống chủ yếu ở
Khu tự trị Chukotka. Theo thống kê 2002, 7.000 trên 15.700 người Chukchi nói được tiếng Chukchi; số người nói tiếng Chukchi đang giảm xuống, hầu hết người Chukchi nói
tiếng Nga (chưa tới 100 người báo rằng họ không nói tiếng Nga).Ngôn ngữ này gần gũi với
tiếng Koryak. Tiếng Chukchi, tiếng Koryak,
tiếng Kerek,
tiếng Alutor,
tiếng Itelmen là những ngôn ngữ cấu thành nên ngữ hệ Chukotka-Kamchatka. Có nhiều nét tương đồng về văn hoá giữa người Chukchi và
người Koryak, chẳng hạn việc lấy
chăn nuôi tuần lộc làm kế sinh nhai. Cả hai dân tộc có tên tự gọi
Luorawetlat (‘ԓыгъоравэтԓьат’ [ɬəɣʔorawetɬʔat]; số ít
Luorawetlan – ‘ԓыгъоравэтԓьан’ [ɬəɣʔorawetɬʔan]), nghĩa là "con người thực sự".Chukchi/Chukchee là dạng
Anh hoá của ngoại danh
tiếng Nga Chukcha (số nhiều Chukchi). Từ tiếng Nga lại bắt nguồn từ Čävča, một tên gọi mà các "láng giềng" nói ngôn ngữ
Tungus dành cho người Chukchi. Từ Čävča đến từ ‘чавчыв’
[tʃawtʃəw], một từ tiếng Chukchi nghĩa là "nhiều tuần lộc," chỉ người có đàn tuần lộc lớn, tức một người giàu với dân địa phương.Đây là một ngôn ngữ bị đe doạ theo
sách đỏ của
UNESCO.