Sông Emba là một con sông chảy qua hai tỉnh
Aktobe (Aktubinsk) và
Atyrau của
Kazakhstan, phân chia hai phần châu Âu và châu Á của quốc gia này, theo đề xuất của
Philip Johan von Strahlenberg trong sách Das Nord- und Östliche Theil von Europa und Asia, in so weit solches das gantze Russische Reich mit Sibirien und der grossen Tatarey in sich begriffet (Miêu tả lịch sử và địa lý các phần phía bắc và phía đông của châu Âu và châu Á thuộc đế quốc Nga tại Siberi và Tatary) xuất bản bằng
tiếng Đức năm 1730. Chiều dài con sông này là 712 km (về mùa lũ), diện tích lưu vực 40.400 km²
[1]. Con sông này bắt nguồn từ sườn tây hoành sơn
Mugodzhary, chảy trên
cao nguyên Poduralskoye và
vùng đất thấp Pricaspiskaya. Nó biến mất trong vùng đầm lầy đất mặn ven biển Caspi (đất
xolonsac ven Caspi) rộng khoảng 5 km cho tới vùng nước biển, trong những năm nhiều nước thì chảy tới
biển Caspi. Nguồn nước cấp cho nó chủ yếu là
tuyết. Dòng chảy chủ yếu xuất hiện trong giai đoạn tháng 4-5 khi tuyết tan, trong phần lớn thời gian còn lại của năm thường khô cạn, phân chia thành các lạch nước sâu riêng rẽ, với độ sâu tới 4–5 m, xen kẽ với các lạch nước nông. Tại khoảng 120 km đầu thượng nguồn, lòng sông khúc khuỷu. Nước sông bị khoáng hóa mạnh: tại thượng nguồn hàm lượng khoáng chất đạt 150–200 mg/l về
mùa xuân và tới 800 mg/l về
mùa hè trong khi tại hạ lưu các chỉ số tương ứng là 1.500-2.000 mg/l về mùa xuân và 3.000-5.000 mg/l về mùa hè. Các chi lưu chính, với dòng chảy của chúng cũng có tính chất theo mùa là Temir (hữu ngạn), Atsaksy (tả ngạn). Tại hạ lưu sông Emba là các mỏ dầu khí (
Vùng dầu khí Nam Emba). Lưu lượng trung bình tại 152 km từ của sông đạt 17,5 m³/s, lưu lượng tối đa đạt 1.240 m³/s
[1].